Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật phát triển bền vững nghề nuôi cá lồng bè trên biển

Việt Nam hiện đang có nhiều loại cá nuôi lồng bè mang lại hiệu quả kinh tế cao như: cá song, cá giò, cá hồng, cá vược, cá tráp, cá chim vây vàng, cá ngừ, cá măng biển... Cả nước hiện có 51 cơ sở sản xuất giống cá biển, sản lượng sản xuất thực tế đạt 509 triệu con.

Theo Tổng cục Thủy sản, nước ta, đặc biệt một số tỉnh phía bắc có nhiều vùng vịnh kín, bãi triều ven biển và một phần ở các hải đảo, vùng biển xa bờ thuận lợi cho nuôi lồng bè. Tổng diện tích tiềm năng nuôi biển ở nước ta khoảng 500 nghìn ha, trong đó diện tích nuôi vùng bãi triều ven biển 153.300 ha; diện tích nuôi vùng vũng vịnh, eo ngách và ven đảo là 79.790 ha và nuôi vùng biển xa bờ 100 nghìn ha.

Nhiều loại cá nuôi lồng bè mang lại hiệu quả kinh tế cao như: cá song, cá giò, cá hồng, cá vược, cá tráp, cá chim vây vàng, cá ngừ, cá măng biển... Cả nước hiện có 51 cơ sở sản xuất giống cá biển, sản lượng sản xuất thực tế đạt 509 triệu con. Cả nước hiện có 387 cơ sở sản xuất giống nhuyễn thể, sản lượng sản xuất thực tế đạt 41,1 tỷ con.

Nuôi hải sản trên biển có nhiều hình thức: Nuôi lồng, nuôi bãi triều, nuôi dây cọc. Các đối tượng nuôi cũng rất phong phú, đa dạng như: cá biển, giáp xác, nhuyễn thể, rong biển... Trong đó, nuôi lồng bè được coi là một hình thức thông dụng, thích ứng và hiệu quả nhất với người nuôi biển gần và xa bờ.

Hiện nay, hình thức nuôi lồng bè đang phát triển mạnh mẽ tại các địa phương như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Kiên Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu...

Mặc dù nghề nuôi cá lồng bè trên biển đã và đang đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên, thực tế sản xuất hiện nay cho thấy có những khó khăn, tồn tại trong công tác quy hoạch, tổ chức sản xuất, áp dụng đúng quy trình kỹ thuật, chất lượng đầu vào, vấn đề thức ăn và môi trường, việc liên kết, mở rộng thị trường tiêu thụ... Bên cạnh đó, khoa học công nghệ trong sản xuất giống còn hạn chế; công nghệ sản xuất chưa chủ động hoàn toàn. Công nghệ nuôi và hệ thống lồng bè thích ứng với thời tiết Việt Nam chưa phát triển.

Một số đối tượng nuôi chưa có quy trình chuẩn hoặc chưa được nghiên cứu thử nghiệm. Sử dụng cá tạp làm thức ăn, dễ gây ô nhiễm môi trường. Vốn đầu tư lớn, thời gian nuôi dài; sự tham gia của các doanh nghiệp lớn còn hạn chế. Lao động tham gia nuôi cá lồng trên biển thiếu hiểu biết về khoa học kỹ thuật, thiếu kinh nghiệm trong vận hành và hạn chế về ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường.

30-1617620575-phat-trien-nuoi-trong-bien-theo-huong-ben-vung2-1662796413.jpeg
Nuôi cá lồng bè đang mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân. Ảnh minh hoạ.

Theo ông Hoàng Văn Hồng, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia cho hay, để phát triển bền vững nghề nuôi cá lồng bè trên biển thì cần chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật nuôi thương phẩm các đối tượng cá biển, tôm biểm, ưu tiên mô hình ứng dụng công nghệ lồng nuôi HDPE, sử dụng thức ăn công nghiệp giảm thức ăn cá tạp, ứng dụng công nghệ thông tin giám sát môi trường, dịch bệnh, quản lý sức khỏe đàn cá nuôi cho người dân.

Bên cạnh đó, viêc xây dựng mô hình, dự án nuôi cá biển, tôm hùm có trách nhiệm gắn với các mô hình tổ chức sản xuất của nông dân trong đó lấy hợp tác xã là nòng cốt, nông dân làm trung tâm với mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho ngư dân. 

Tổng cục Thủy sản cho biết, thời gian tới, Việt Nam sẽ phát triển nuôi biển trở thành một ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, công nghiệp, đồng bộ, an toàn, hiệu quả, bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái; tạo ra sản phẩm có thương hiệu, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu; giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện kinh tế xã hội và nâng cao thu nhập cho cộng đồng cư dân ven biển.

Bên cạnh đó, ông Đỗ Đình Minh, Chi Cục trưởng Chi cục Thủy sản Quảng Ninh cho biết, tỉnh đã tập trung chỉ đạo và hình thành những vùng nuôi trồng thủy sản tập trung với các đối tượng chủ lực có giá trị kinh tế cao như cá biển, nhuyễn thể. Đặc biệt Quảng Ninh còn phát triển nghề nuôi trai cấy ngọc và hoạt động nuôi trồng thủy sản kết hợp du lịch.

Thời gian tới, Quảng Ninh sẽ tập trung đầu tư phát triển nuôi biển theo quy mô công nghiệp, hiện đại đưa Quảng Ninh trở thành trung tâm thủy sản của miền bắc; tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, dịch vụ các vùng nuôi biển tập trung xa bờ tại Quảng Ninh. Phát triển các mô hình trang trại nuôi biển quy mô công nghiệp gắn với du lịch sinh thái kết hợp trải nghiệm, ông Minh cho hay.

Thời gian tới, Việt Nam sẽ phát triển nuôi biển trở thành một ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, công nghiệp, đồng bộ, an toàn, hiệu quả, bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái; tạo ra sản phẩm có thương hiệu, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu; giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện kinh tế xã hội và nâng cao thu nhập cho cộng đồng cư dân ven biển. Tiếp tục xây dựng khu vực Hải Phòng-Quảng Ninh trở thành trung tâm nuôi biển, gắn với trung tâm nghề cá lớn; trọng tâm phát triển nuôi biển ở các tỉnh gắn với bảo tồn biển và du lịch quốc gia.

Đặc biệt, xây dựng các vùng sản xuất giống nhuyễn thể tập trung, đáp ứng nhu cầu giống nhuyễn thể cho khu vực và cả nước; các tỉnh, thành phố từ Thanh Hóa đến Bình Thuận phát triển nuôi biển gắn với chế biến thủy sản, dịch vụ hậu cần và hạ tầng phát triển thủy sản. Mục tiêu đến năm 2025, diện tích nuôi biển đạt 280.000 ha, thể tích lồng nuôi 10 triệu m3; sản lượng nuôi biển đạt 850.000 tấn. Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt từ 0,8 - 1 tỷ USD.

Thi Nguyên (t/h)