Đẩy mạnh liên kết vùng mở ra cơ hội tăng trưởng xuất khẩu nông sản

Trước bối cảnh tình hình kinh tế xã hội trong nước và trên thế giới còn nhiều biến động thì vấn đề liên kết vùng và kết nối tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) lại càng trở thành vấn đề cấp bách.

Với khu vực kinh tế tập thể, HTX hiện nay, vai trò liên kết vùng lại càng trở nên quan trọng khi mà khu vực này đang thu hút khoảng 7 triệu thành viên. Các HTX hiện nay đã thu hút được 3,28 triệu hộ nông dân (chiếm khoảng 38% tổng số hộ nông dân cả nước). Trên địa bàn cả nước đã tổ chức được trên 1.600 chuỗi cung ứng nông sản an toàn, trong số các chuỗi nêu trên có sự tham gia của trên 300 công ty, 150 HTX.

nong-san-1666772965.jpg
Chuối Việt Nam được bày bán tại một siêu thị ở Nhật Bản. Ảnh: TL

Tỷ lệ nông sản chủ lực tiêu thụ thông qua liên kết sản xuất tiêu thụ nông sản từ 10% năm 2017 (trước khi triển khai Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp) lên hơn 30% hiện nay, trong đó tỷ lệ HTX nông nghiệp thực hiện liên kết, tiêu thụ nông sản cho nông dân đạt 37% (tăng 25%).

Tuy nhiên, trong liên kết vùng và kết nối tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp với HTX thì vai trò của các bên tham gia hợp tác, liên kết trong chuỗi giá trị nông sản còn nhiều hạn chế (còn gần 70% hợp tác xã nông nghiệp chưa tham gia tiêu thụ nông sản, chưa làm được vai trò cầu nối nông dân với doanh nghiệp, một số HTX có tham gia nhưng cũng ở mức độ, quy mô hạn chế).

Không những vậy, hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân chưa bền vững, chủ yếu vẫn là thỏa thuận mua bán, tổ chức các vùng nguyên liệu đạt chuẩn về chất lượng, sản xuất theo hợp đồng gắn với thị trường tiêu thụ diễn ra chậm. Việc tiêu thụ sản phẩm còn qua nhiều trung gian, hiệu quả kinh tế không cao.

Đơn cử như thị trường tiêu thụ nông sản chưa bền vững, quá lệ thuộc vào một số thị trường, Trung Quốc là thị trường lớn nhất, hiện chiếm tới 28% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam ra thế giới (tỷ trọng nhóm hàng nông lâm thủy sản giảm dần nhưng vẫn còn ở mức cao (năm 2008 là 30,63%, đến năm 2017 giảm xuống 21,70%; bình quân cả giai đoạn là 28%), trong đó, giá trị xuất khẩu tiểu ngạch (hay biên mậu gọi là “kinh doanh dưới chuẩn”), chiếm khoảng 60-70% (qua các cửa khẩu các tỉnh biên giới phía Bắc) do thủ tục đơn giản, chi phí thấp.

Một mặt, không khuyến khích sản xuất nông sản theo đúng các tiêu chuẩn (VietGap, Global...), đảm bảo truy xuất nguồn gốc, an toàn thực phẩm và do “kinh doanh dưới chuẩn” nên rủi ro cao, hiện tượng bị ép giá, ép cấp, ùn ứ nông sản tại các cửa khẩu xảy ra khá phổ biến, mặt khác, không khuyến khích các phương thức kinh doanh tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị bền vững phát triển.

Trước những thách thức trên, tại Diễn đàn “ Đẩy mạnh liên kết vùng-tăng tốc phát triển kinh tế": Kết nối tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp, hợp tác xã”, ông Dương Thái Trung, Đại diện Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công thương) kiến nghị: Cần đẩy mạnh phát triển mạnh mẽ kết cấu hạ tầng thương mại thông qua việc rà soát, sửa đổi Luật Thương mại theo hướng bổ sung quy định về hạ tầng thương mại để làm căn cứ pháp lý cho việc triển khai các chính sách có liên quan; Thu hút ngày càng nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông dân và nông thôn theo hướng cần sớm phổ biến rộng rãi đến các cấp chính quyền địa phương và doanh nghiệp và xây dựng chương trình triển khai Nghị định 57 một cách thiết thực, tránh tạo ra thêm các quy định cản trở doanh nghiệp tiếp cận các khoản ưu đãi, hỗ trợ đã được nêu trong Nghị định.

tdt-1666772965.jpg
Ông Dương Thái Trung, Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương).

Đặc biệt, đại diện Vụ Thị trường trong nước khuyến nghị cần phát triển kinh tế trang trại, HTX góp phần đẩy mạnh tiêu thụ nông sản. Trong đó, các chính sách hướng đến thúc đẩy HTX tham gia sâu vào liên kết chuỗi giá trị, giúp HTX phát triển các hoạt động có giá trị gia tăng, khuyến khích các hộ nông dân tham gia HTX. Cùng với đó là các chính sách tăng cường xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường tiêu thụ; chính sách ưu đãi về tín dụng, thuế, phí; Chính sách và giải pháp về đất đai…

Để đẩy mạnh liên kết vùng, Phó Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Văn Thịnh cũng đưa ra một số giải pháp: Cần tiếp tục nghiên cứu hình thành tổ chức quản trị - điều hành cấp vùng phù hợp, đủ sức đảm đương và điều tiết các nhu cầu cấp vùng và thực hiện quản lý nhà nước về phát triển vùng.

Bên cạnh đó, để đưa nông dân vào guồng máy sản xuất lớn trong nền nông nghiệp hiện đại cùng với sự liên kết của doanh nghiệp và HTX thì phải giải quyết được bài toán tích tụ ruộng đất.

Ngoài ra, cần thắt chặt liên kết “bốn nhà” (trong đó có mô hình liên kết HTX) chính là nhằm khắc phục những hạn chế hiện nay trong sản xuất nông nghiệp, đồng thời xây dựng nền tảng vững chắc, phát huy lợi thế từng địa phương, vùng miền.

Mặt khác, cần quan tâm đầu tư hạ tầng sản xuất và khâu tiêu thụ sản phẩm của các HTX nói riêng và các đơn vị sản xuất kinh doanh nông nghiệp nói chung. Hơn nữa, cần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất (bao gồm cơ cấu cây trồng, vật nuôi) theo hướng chuyên môn hóa theo vùng lãnh thổ và mở rộng liên kết vùng. Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và HTX, hộ nông dân với vùng nguyên liệu tập trung có mối quan hệ gắn bó mật thiết, chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau.

Liên kết kinh tế một mặt quy tụ, tập trung các HTX, hộ nông dân sản xuất nhỏ lẻ, phân tán thành cụm, thành tổ, thành nhóm để thuận lợi cho việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, đưa công nghệ mới vào sản xuất, đẩy mạnh cơ giới hóa cũng như thuận lợi cho việc kiểm tra, giám sát hay thu mua nông sản; mặt khác, hướng sản xuất vào một loại cây, con thế mạnh nhất định như năng suất, chất lượng cao, giá thành hợp lý, phù hợp với nhu cầu của thị trường. Từ đó, dần hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh.

Đông Nghi