Phát huy vai trò hệ thống hồ, đập thủy lợi trước thách thức biến đổi khí hậu

Hệ thống các hồ, đập thủy lợi “gánh” trên vai nhiều nhiệm vụ trọng yếu như cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt kết hợp cắt, giảm lũ; phục vụ đa mục tiêu như cấp nước phát điện, tạo không gian phát triển điện mặt trời, nuôi trồng thủy sản, phát triển du lịch… Tuy nhiên, các hồ, đập của Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức về biến đổi khí hậu...

Nội dung trên được thảo luận tại Diễn đàn "Nâng cao hiệu quả thông tin, cảnh báo, đảm bảo vận hành an toàn đập, hồ chứa nước trong tình hình mới" do Cục Thủy lợi, Viện Quy hoạch Thủy lợi, Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam, Báo Nông nghiệp Việt Nam phối hợp tổ chức ngày 19/11.

van-hanh-ho-chua-he-thong-thuy-loi-4-1732173218.jpg
Toàn cảnh diễn đàn "Nâng cao hiệu quả thông tin, cảnh báo, đảm bảo vận hành an toàn đập, hồ chứa nước trong tình hình mới".

Nhận diện những vấn đề cấp bách của hệ thống các hồ, đập thủy lợi

Hiện nay, Hệ thống các hồ, đập thủy lợi “gánh” trên vai nhiều nhiệm vụ trọng yếu như cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt kết hợp cắt, giảm lũ; phục vụ đa mục tiêu như cấp nước phát điện, tạo không gian phát triển điện mặt trời, nuôi trồng thủy sản, phát triển du lịch… Các hồ, đập của Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức về biến đổi khí hậu và tình trạng xuống cấp công trình.

Tại Diễn đàn, ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Thủy lợi thông tin: Hiện nay cả nước có hơn 7.300 đập, hồ chứa thủy lợi (592 đập dâng, hơn 6.700 hồ chứa) với tổng dung tích trữ khoảng 15,2 tỷ m3. Các đơn vị trực thuộc Bộ NN&PTNT được giao quản lý 4 hồ chứa quan trọng đặc biệt và 1 hồ liên tỉnh. 8 hồ chứa thủy lợi liên tỉnh còn lại Bộ phân cấp cho các địa phương quản lý.

Tại các địa phương quản lý hơn 6.700 hồ. 63 đơn vị cấp tỉnh quản lý kỹ thuật (QLKT) hơn 2.300 hồ chứa lớn, vừa và nhỏ (chiếm 34%). Các đơn vị cấp huyện, xã QLKT hơn 4.200 hồ chứa (trong đó 64% là hồ nhỏ).

Ông Lương Văn Anh nhấn mạnh thực trạng: "Về lòng hồ và vùng hạ du đập, nhiều hồ chứa chỉ giải phóng mặt bằng (GPMB) lòng hồ đến cao trình mực nước dân bình thường (MNDBT), chưa GPMB đến cao trình mực nước lũ thiết kế (MNLTK). Nhiều vụ vi phạm như xây nhà, trồng cây… làm giảm không gian chứa và khả năng thoát lũ của một số hồ chứa lớn như hồ Núi Cốc, Vực Mấu, Ayun Hạ, La Ring, Dầu Tiếng... Hoạt động dân sinh diễn ra trong khu vực lòng hồ tạo áp lực cho công tác vận hành hồ chứa".

van-hanh-ho-chua-he-thong-thuy-loi-1-1732173255.jpg
Ông Lương Văn Anh - Phó Cục trưởng Cục Thủy lợi cho rằng công tác quản lý, vận hành các hồ chứa thủy lợi vẫn đối diện với nhiều khó khăn.

Bên cạnh đó, về mặt pháp lý, các hồ chứa thuỷ lợi phải được vận hành theo quy trình vận hành (QTVH) được lập, phê duyệt, công bố công khai theo quy định. "Tuy nhiên, hiện mới chỉ có 28% số hồ được lập QTVH (gồm 213 hồ tràn có cửa van điều tiết và 1.600 hồ mà tràn xả lũ là tràn tự do). Việc vận hành theo QTVH hiện nay chủ yếu căn cứ vào các yếu tố thời tiết dự báo (mưa dự báo), do thiếu các thiết bị đo mưa trên lưu vực hồ chứa", ông Lương Văn Anh cho biết.

Một số nhiệm vụ thực hiện còn hạn chế do chưa có đủ kinh phí, tập trung ở nhóm hồ vừa và nhỏ. Ngoài ra, theo QCVN 04-05:2022, lòng hồ là vùng được xác định từ ranh giới giải phóng mặt bằng trở xuống của dự án hồ chứa nước. Theo quy định tại Nghị định số 129/2017/NĐ-CP thì đất gắn với lòng hồ là tài sản kết cấu hạ tầng thủy lợi. Điều này gây khó khăn trường hợp lòng hồ được xác định là vùng đất từ cao trình đỉnh đập trở xuống.

Lãnh đạo Cục Thủy lợi cũng cho biết một thực tế: "Trường hợp cần thăm dò, khai thác khoáng sản ở khu vực cấm hoạt động khoáng sản, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc điều chỉnh quy hoạch khoáng sản có liên quan. Tuy nhiên, hiện nay nhiều địa phương chưa điều chỉnh quy hoạch khoáng sản để làm cơ sở cho việc thăm dò, khai thác khoáng sản trong lòng hồ chứa thuỷ lợi".

Sau bão số 3, số hồ hư hỏng nặng tăng thêm 68 hồ. Công tác vận hành hồ chứa bộc lộ nhiều hạn chế như: một số QTVH được phê duyệt đến nay đã hơn 10 năm chưa được rà soát, điều chỉnh, bổ sung. Các hồ chứa mà lòng hồ có hoạt động dân sinh, hạ du bị ngập thì việc vận hành theo QTVH sẽ gặp nhiều khó khăn.

van-hanh-ho-chua-he-thong-thuy-loi-7-1732173202.jpg
Hiện nay cả nước có hơn 7.300 đập, hồ chứa thủy lợi với tổng dung tích trữ khoảng 15,2 tỷ m3.(Trong ảnh: Hồ thủy điện Thác Bà tại huyện Yên Bình, Yên Bái)

Cần có giải pháp đồng bộ, từ cải tiến công nghệ đến nâng cao năng lực quản lý, vận hành

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng tác động mạnh mẽ đến Việt Nam, an toàn hồ, đập thủy lợi đang trở thành vấn đề ưu tiên hàng đầu trong công tác quản lý tài nguyên nước của đất nước. Để đảm bảo an toàn và hiệu quả, cần có giải pháp đồng bộ, bao gồm cải tiến công nghệ, nâng cao năng lực quản lý, vận hành theo thời gian thực và hoàn thiện các cơ chế, chính sách phù hợp với bối cảnh mới.

Tuy nhiên, theo thống kê của Cục Thủy Lợi, về quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng, giám sát vận hành hồ, 17% số hồ đã được lắp đặt thiết bị quan trắc KTTV chuyên dùng, thiết bị GSVH hồ chứa. Đây là các thiết bị hỗ trợ đắc lực cho công tác chỉ đạo, vận hành hồ theo QTVH được duyệt và theo diễn biến thực tế. Khi ứng phó tình huống khẩn cấp chỉ có 17% số hồ được xây dựng phương án ứng phó với tình huống. Như vậy, các hồ chứa, đặc biệt hồ lớn, hạ du đông dân cư nếu không được xây dựng phương án, khi có tình huống sẽ rất bị động trong công tác ứng phó.

Ông Hoàng Văn Thắng, nguyên Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, Chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam cho biết, Việt Nam có khoảng 4.500 hồ, đập nhỏ. Theo Luật Thủy lợi, những hồ này sẽ giao cho người thụ hưởng, thường là đơn vị cấp xã quản lý, vận hành (còn gọi là thủy lợi cơ sở). Tuy nhiên, trong thực tế, việc vận hành ở cấp cơ sở thường không đúng như kỳ vọng.

van-hanh-ho-chua-he-thong-thuy-loi-6-1732173413.jpg
Hồ thủy lợi Phú Ninh. (Quảng Nam)

Vấn đề ở đây, theo ông Thắng, một phần là do việc thụ hưởng các dịch vụ thủy lợi là miễn phí. Do đó, các công trình thủy lợi nhỏ (chiếm hơn 60% số lượng cả nước), rất cần 1 kế hoạch tổng thể của địa phương, tất cả tại chỗ, dựa vào sức mạnh của cộng đồng. Ngoài ra, là việc kiểm tra, giám sát thường xuyên của chính quyền địa phương. Lấy ví dụ về hồ thủy điện Thác Bà, vẫn có những tranh cãi về thời kỳ lũ muộn của hồ này.

Ngoài ra, việc thiết kế hồ chứa này từ 60 năm trước, khi ấy rừng nhiều, ít xuất hiện mưa muộn. Nhưng ngày này, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, lũ bất thường hơn, mưa muộn hơn.

"Có lẽ cần phải tính toán lại năng lực xả lũ của các hồ chứa, không chỉ Thác Bà", ông Thắng bày tỏ. Việc này đặt ra những vấn đề về việc xây đập mới, hoặc xử lý theo hướng tận dụng đập tràn để điều tiết lũ.

Tại diễn đàn, Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi Đỗ Văn Thành cho biết, nhiều đập, hồ chứa của nước ta đã xây dựng trên 30 năm, xảy ra hư hỏng xuống cấp, bồi lắng lòng hồ. Nhiều hồ chứa được chuyển sang phục vụ đa mục tiêu, đặt ra yêu cầu tính toán lại nhiệm vụ và thông số thiết kế.

Hơn nữa, một số hồ lớn đã được xây dựng bản đồ ngập lụt nhưng chưa được đánh giá năng lực thoát lũ hạ du; nhiều hồ chứa nhỏ chưa có phương án bảo đảm an toàn hồ đập và phòng lũ hạ du. Hành lang thoát lũ ở hạ du của một số hồ chứa lớn bị xâm lấn, dòng chảy co hẹp, không bảo đảm thoát lũ thiết kế, gây ra úng ngập hạ du khi vận hành xả lũ. Công tác dự báo, cảnh báo mưa, lũ, nguồn nước đến hồ còn hạn chế. Ngoài ra, tổ chức bộ máy quản lý, khai thác; công tác hiện đại hóa quản lý, vận hành, bảo đảm an toàn đập còn hạn chế…

van-hanh-ho-chua-he-thong-thuy-loi-3-1732173441.jpg
Ông Đỗ Văn Thành, Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi.

Theo ông Đỗ Văn Thành, quy hoạch đến năm 2030, ngành thủy lợi dự kiến xây dựng thêm 31 hồ chứa nước để tăng dung tích trữ lên 1,92 tỷ m3. Bên cạnh đó, nâng cao dung tích các 8 hồ chứa nước có đủ điều kiện để tăng dung tích chứa lên 360 triệu m3.

Ngoài ra, trong quy hoạch cũng đặt mục tiêu xây dựng các hồ chứa nhỏ, phân tán và hệ thống tưới cho 0,3 triệu ha rau màu, cây ăn quả, cây công nghiệp đến năm 2030 và tăng thêm khoảng 0,6 triệu ha đến năm 2050; xây dựng chương trình hồ chứa nhỏ, phân tán cấp nước sinh hoạt và sản xuất vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Ông Đỗ Văn Thành nhận định, việc quản lý, vận hành hồ chứa thủy lợi gặp nhiều thách thức do biến đổi khí hậu khiến tần suất và cường độ mưa lũ tăng; hầu hết các hồ chứa thủy lợi được xây dựng trước năm 2000, khi thiết kế chưa đánh giá hết khả năng thoát lũ ở hạ du; tại nhiều khu vực, nhu cầu nước cho sản xuất lớn hơn khả năng đáp ứng của hồ chứa…

Do đó, trong thời gian tới, Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi kiến nghị ngành thủy lợi cần tăng cường thể chế, chính sách trong quản lý, đầu tư, bảo vệ công trình hồ chứa, đập dâng nhằm phát huy hiệu quả công trình và đảm bảo an toàn công trình, an toàn hạ du; xây dựng và điều chỉnh quy trình vận hành,... đặc biệt là đối với các hồ chứa, đập dâng vừa và nhỏ. Trong đó, chú trọng việc sử dụng linh hoạt, hợp lý phần dung tích trên mực nước dâng bình thường để tăng khả năng điều tiết cấp nước, phòng lũ; nghiên cứu sử dụng và khai thác vùng bán ngập hợp lý.

Đồng thời, cần nghiên cứu ứng dụng công nghệ tiên tiến trong tính toán quy hoạch, thiết kế, xây dựng và vận hành công trình, tích cực nghiên cứu cơ chế huy động đa dạng nguồn lực trong đầu tư, khai thác và bảo vệ công trình hồ chứa, đập thủy lợi./.

Trọng Bình