Việt Nam và lộ trình hiện thực hóa nông nghiệp xanh từ nỗ lực chuyển đổi số

Thực hiện các cam kết giảm phát thải của Việt Nam khi tham gia Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu, ngành Nông nghiệp đang bước vào lộ trình phát triển xanh và bền vững. Để hiện thực mục tiêu này vấn đề chuyển đổi số được coi là một trong những yếu tố then chốt.
so-hoa-nong-nghiep-xanh-01-1706491655.jpg
Hỗ trợ nông dân ứng dụng số hóa vào trong sản xuất để phát triển nông nghiệp xanh.

Chuyển đổi số để phát triển nông nghiệp xanh

Cùng với việc thúc đẩy toàn ngành tư duy kinh tế nông nghiệp, nông nghiệp đa giá trị, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan đã nhiều lần nói về nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn và giảm phát thải khí nhà kính.

Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng khốc liệt, nông nghiệp xanh hay nói rộng hơn là kinh tế xanh đòi hỏi cả thế giới đều phải thay đổi về nhận thức. Bởi, sản xuất theo phương thức cũ khiến nền nông nghiệp tạo ra khí carbon, hiệu ứng nhà kính gây ra biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu tác động ngược lại nền nông nghiệp.

Hiệu ứng hai chiều này chỉ có nền nông nghiệp xanh mới hóa giải được. Bởi lẽ, nông nghiệp xanh hướng đến những gì thân thiện nhất với môi trường, không gây tác động tới tài nguyên thiên nhiên, không gây ra hiệu ứng nhà kính.

so-hoa-nong-nghiep-xanh-02-1706491724.jpg
Mô hình sản xuất tôm xen lúa là hướng phát triển nông nghiệp xanh và bền vững.

Hiện có nhiều người phát kiến ra những mô hình nông nghiệp xanh. Người nông dân đã và đang thích ứng được với những mô hình nông nghiệp để thuận tự nhiên, bảo vệ môi trường, giảm phát thải.

Hiện nay, tỉ lệ nông dân Việt Nam sử dụng internet hằng ngày khá cao. Đây là một trong những thuận lợi giúp nông dân ứng dụng số hóa vào trong sản xuất. Việc ứng dụng chuyển đổi số trong nông nghiệp không chỉ giúp sản phẩm nông, lâm, thủy sản của nông dân đáp ứng được đòi hỏi của thị trường về tính minh bạch trong quá trình sản xuất, truy xuất nguồn gốc sản phẩm mà chuyển đổi số còn giúp nông dân gia tăng giá trị, hiệu quả của sản phẩm nông, lâm, thủy sản.

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hoàng Trung nhấn mạnh đến việc thiết lập kiến trúc dữ liệu nền tảng số của ngành nông nghiệp, cũng như tăng cường sự phối hợp giữa địa phương với Trung ương trong bảo vệ các hoạt động nông nghiệp xanh và bền vững.

Thứ trưởng Hoàng Trung cho biết, theo "Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030" nông nghiệp là một trong 8 lĩnh vực được ưu tiên thực hiện chuyển đổi số. Đến nay, Bộ NN&PTNT đã thành lập Trung tâm Chuyển đổi số và thống kê nông nghiệp thực hiện chức năng tham mưu, tổ chức triển khai hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử trong Bộ và ngành NNPTNT.

Với sự nỗ lực, quyết tâm của các bên liên quan, sự phối hợp chặt chẽ của Bộ NN&PTNT với UNDP, các tổ chức quốc tế và các địa phương sẽ góp phần thực hiện thành công chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp.

Ông Patrick Haveman, Phó trưởng đại diện UNDP tại Việt Nam cho rằng, hệ thống truy xuất nguồn gốc carbon được số hóa đối với 2 mặt hàng xuất khẩu, gồm thanh long và tôm của Việt Nam có ý nghĩa quan trọng đối với chính quyền địa phương, doanh nghiệp, nhà sản xuất và người tiêu dùng hướng đến "nền kinh tế xanh".

"Việc tuân thủ các chuẩn mực 'xanh' và tiêu chuẩn 'xanh' là yêu cầu như một xu hướng mới. Bằng việc sử dụng công nghệ để thúc đẩy các hoạt động kinh doanh thông minh thích ứng với khí hậu và tạo sinh kế bền vững của nông dân địa phương, chúng ta đang cùng nhau mở đường cho một tương lai xanh hơn, thịnh vượng hơn cho nền nông nghiệp Việt Nam", ông Patrick Haveman chia sẻ.

so-hoa-nong-nghiep-xanh-05-1706491762.jpg
Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao hướng tới hướng tới ngành gạo xanh – sống lành.

Đến nay, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán 19 hiệp định thương mại tự do (FTA). Đây cơ hội lớn cho xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam. Bên cạnh đó, việc tham gia vào các FTA thế hệ mới, như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) đòi hỏi người dân và doanh nghiệp tự nâng cao năng lực, áp dụng công nghệ để đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật cao không chỉ đối với chất lượng sản phẩm, mà còn cả về mẫu mã và các tiêu chuẩn về môi trường.

Những mô hình nông nghiệp xanh tiên phong

Nhận định về những thành công bước đầu trong chuyển đổi xanh của nông nghiệp Việt Nam, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết: Chúng ta đã có những mô hình sản xuất tuy nhỏ nhưng vẫn "xanh". Ví như mô hình lúa - tôm ở Cà Mau. Bà con ngày xưa chỉ trồng lúa, giờ biết kết hợp nuôi tôm ngay dưới chân ruộng lúa. Đây là canh tác thuận với môi trường, giảm chi phí phân bón, nước, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học - những thứ gây tác động tới môi trường, hiệu ứng nhà kính.

Hay như ở Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình đang phát triển lúa - rươi. Mô hình này là nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp xanh dựa vào ngành hàng này để phát triển ngành khác hướng tới không lạm dụng phân, thuốc. Vì nuôi rươi không thể sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.

Điều này cũng chứng minh hạt gạo ở vùng lúa - tôm, lúa - cá, lúa - rươi góp phần giảm lượng phát thải khí nhà kính.

Mô hình nông nghiệp tuần hoàn ở Tây Nguyên cũng vậy. Từ nông trại cà phê, cây ăn quả, thay vì đốt phụ phẩm dẫn đến phát tán hiệu ứng khí nhà kính, bà con đem tái chế, băm nhỏ tạo thành phân sinh học bón cho cây trồng.

Những mô hình này mặc dù nhỏ nhưng chúng ta nhận định, đó chính là mô hình tương lai của nền nông nghiệp xanh cần phải được nhân rộng, tạo sự lan tỏa. Đồng thời, chứng minh cho người nông dân thấy trên cùng một đơn vị diện tích, làm nông nghiệp xanh không khó, không đắt đỏ, thậm chí nếu kiên trì sẽ giảm được chi phí sản xuất, không ảnh hưởng tới sức khỏe, không gây ra hiệu ứng khí nhà kính, giảm phát thải…

so-hoa-nong-nghiep-xanh-04-1706491793.jpg
Mô hình lúa – rươi tại Hải Dương là sự vận dụng hiệu quả nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp xanh.

Hiện nay, chính phủ đã phê duyệt Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030. Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao hướng tới hướng tới ngành gạo xanh – sống lành. Qua đây bà con thấy được cách làm lúa phù hợp tri thức bản địa, nhưng đưa yếu tố khoa học vào để chuẩn hóa từ giống, canh tác, giảm phân vô cơ, tăng phân hữu cơ, tưới tiêu tiết kiệm… sẽ không chỉ thu được gạo chất lượng cao mà còn tạo ra cánh đồng lớn bán tín chỉ carbon.

Nói một cách dễ hiểu, có những ngành không thể giảm phát thải, họ phải đi mua tín chỉ carbon của những ngành có thể giảm phát thải để bù trừ. Đây là lợi thế của nền nông nghiệp Việt Nam.

"Gieo trồng mầm xanh, tạo nên mùa vàng bội thu. Xây dựng một nền sản xuất, kinh doanh có trách nhiệm với con người và môi trường, góp phần tích cực vào ổn định an ninh lương thực thế giới luôn là mục tiêu chiến lược, là sự cam kết của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập", Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhận định.

Trong mọi giai đoạn, nông nghiệp Việt Nam luôn được coi là bệ đỡ của nền kinh tế. Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó nhấn mạnh yếu tố khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, đặc biệt là việc tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư để hướng tới nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh./.

Bình Châu