Phát triển chuỗi liên kết giá trị trong nuôi trồng thủy sản trên biển, nâng tầm thủy sản Việt Nam

Hiện, nuôi trồng thủy sản trên biển đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế biển để đưa Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển trong thế kỷ của biển và đại dương. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa có văn bản gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ven biển về việc tăng cường chỉ đạo, quản lý và phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên biển.

Cụ thể, theo chủ trương phát triển nuôi biển đã được Đảng, Nhà nước xác định tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành “Chiến lược phát triển thuỷ sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Quyết định số 985/QĐ-TTg ngày 16/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình Quốc gia phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2021 – 2030 và Quyết định số 1664/QĐ-TTg ngày 04/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Qua đó, mục tiêu đến năm 2030, nuôi biển nước ta đạt sản lượng 1,45 triệu tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 tỷ đến 2 tỷ đô la Mỹ. Phát triển nuôi biển không chỉ thúc đẩy kinh tế xã hội mà còn góp phần bảo vệ nguồn lợi hải sản cho tương lai, giảm áp lực khai thác, hình thành ngành thuỷ sản “Minh bạch - trách nhiệm - bền vững”, có kiểm soát, được quản lý, theo khuyến nghị của quốc tế, để tạo dựng hình ảnh quốc gia có trách nhiệm đối với các vấn đề có tính toàn cầu.

Để thực hiện những mục tiêu trên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đề nghị Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ven biển chỉ đạo các đơn vị, địa phương trực thuộc quán triệt nhận thức chung đến các cấp lãnh đạo và quản lý tại địa phương về định hướng phát triển kinh tế biển và chủ trương “Giảm khai thác, tăng nuôi trồng” để cân bằng giữa nhu cầu của con người và giữ gìn tài nguyên biển, phát triển bền vững; đẩy mạnh tuyên truyền để người dân biết, thống nhất nhận thức và hành động. Trong quá trình thực hiện chủ trương này phải đặc biệt lưu ý triển khai các mô hình chuyển đổi nghề phù hợp cho lực lượng lao động khai thác hải sản ven bờ và các dịch vụ liên quan nhằm tạo sinh kế, đảm bảo ổn định xã hội.

Các địa phương cần tổng hợp, rà soát, sắp xếp thứ tự ưu tiên các nhóm nghề phải chuyển đổi theo quy định, kết hợp với kế hoạch phát triển nuôi biển của địa phương để có giải pháp tổ chức, triển khai các mô hình chuyển đổi nghề phù hợp. Đồng thời, xây dựng kế hoạch đào tạo, tập huấn kỹ năng, chuyên môn cho lực lượng lao động cần chuyển đổi nghề và có cơ chế, chính sách khuyến khích hợp lý để người dân tự nguyện tham gia.

Các tỉnh, thành phố tiếp tục tổ chức triển khai hiệu quả các nhiệm vụ về phát triển nuôi biển đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Lưu ý quán triệt tư duy phát triển kinh tế nuôi biển phải tích hợp đa giá trị, hài hòa với các ngành kinh tế có liên quan như giao thông, du lịch, điện gió, xây dựng nông thôn mới…

Bên cạnh đó, tổ chức hệ sinh thái ngành hàng nuôi biển theo nguyên tắc hợp tác, liên kết, lấy con người làm trung tâm, có sự kết nối giữa các cấp lãnh đạo, quản lý với đơn vị nghiên cứu, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức nghề nghiệp của người dân tham gia nuôi biển. Đồng thời, quan tâm phát triển đồng bộ chuỗi giá trị ngành hàng nuôi biển (bao gồm giống, công nghệ lồng bè, công nghệ nuôi trồng, kiểm soát dịch bệnh, kiểm soát môi trường, dinh dưỡng, thu hoạch, bảo quản chế biến, logistics, ứng dụng công nghệ số...) để tạo ra giá trị gia tăng trong từng công đoạn.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đề nghị các tỉnh, thành phố khẩn trương hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh làm cơ sở lập kế hoạch phát triển nuôi biển bền vững, hạn chế các xung đột lợi ích trong không gian biển.

thuy-san-1680237862.jpg

Để nuôi biển bền vững cần xây dựng chuỗi liên kết. Ảnh minh họa

Vụ Nuôi trồng Thủy sản (Tổng cục Thủy sản) cho biết, Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km, với tổng diện tích tiềm năng nuôi biển 500.000 ha; trong đó, vùng bãi triều 153,3 nghìn ha, vùng vũng vịnh, eo ngách và ven đảo 79.790 ha và nuôi vùng biển xa bờ 100.000 ha. Đối tượng nuôi biển phong phú với nhóm cá biển, nhuyễn thể, rong tảo biển… Năm 2022, tổng diện tích nuôi biển của Việt Nam đạt 85.000 ha, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 23,3%/năm (chưa tính 202.000 ha nuôi xen ghép các đối tượng khác), với 8,9 triệu m3 lồng. Đến nay, cả nước có khoảng 7.447 cơ sở nuôi biển với 248.768 lồng, bè.

Trong khi đó, các mô hình nuôi biển công nghiệp đòi hỏi vốn lớn nên hiện chỉ có một số ít doanh nghiệp đầu tư. Nghề nuôi biển còn tự phát, thiếu quy hoạch, cơ sở hạ tầng hạn chế, trình độ kỹ thuật sản xuất chưa cao nên sản xuất kém hiệu quả, ô nhiễm môi trường, thiếu bền vững, dịch bệnh, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, bão gió; công nghệ lồng nuôi chưa đáp ứng; lao động tham gia nuôi cá lồng trên biển thiếu số lượng và khoa học kỹ thuật, thiếu kinh nghiệm trong vận hành. Vì vậy, ngành nuôi biển cần sớm chuyển sang nuôi công nghiệp để tăng sức cạnh tranh, giảm ô nhiễm môi trường.

Theo Tổng cục Thủy sản, bước sang năm 2023, nuôi biển của nước ta phấn đấu đạt diện tích 90.000ha (chưa tính diện tích nuôi xen ghép) và 9,5 triệu m3 lồng nuôi. Tổng sản lượng nuôi biển đạt 850.000 tấn. Trong đó, một số đối tượng chính gồm cá biển 15.000ha và 4,3 triệu m3 lồng; sản lượng đạt 75.000 tấn; nhuyễn thể 57.000ha, 1 triệu m3 lồng, sản lượng đạt 630.000 tấn; tôm hùm 4,2 triệu m3 lồng, sản lượng đạt 2.800 tấn,…

Nhằm đạt được các mục tiêu đề ra và khắc phục những khó khăn đang còn tồn tại, Tổng cục Thủy sản cho biết, trong năm 2023, toàn ngành sẽ tập trung tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm, từ con giống, vật tư đầu vào, vật liệu làm lồng, nuôi thương phẩm đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Trong đó doanh nghiệp thu mua, chế biến, tiêu thụ đóng vai trò hạt nhân liên kết và tổ chức chuỗi sản xuất.

Bên cạnh đó, tổ chức lại các cơ sở nuôi nhỏ lẻ, phân tán theo hình thức quản lý có sự tham gia của cộng đồng, trong đó chú trọng các mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã nhằm tăng cường giúp đỡ nhau trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và chung tay bảo vệ môi trường. Hình thành kênh cung cấp thông tin thị trường, thông tin về thiên tai, biến đổi khí hậu,… để kịp thời thông tin tới các cơ sở nuôi trồng thủy sản trên biển, nhằm giảm thiểu rủi ro trong quá trình sản xuất.

Cùng với đó, xây dựng cơ chế liên kết giữa nuôi biển với hoạt động các ngành kinh tế khác để tận dụng hệ thống cơ sở hạ tầng và hỗ trợ các hoạt động sản xuất trên biển. Mặt khác, ưu tiên phát triển nuôi biển (đặc biệt là nhóm đối tượng có tiềm năng như cá biển, nhuyễn thể, tôm hùm) tại các vùng có lợi thế về điều kiện tự nhiên thành một lĩnh vực sản xuất hàng hóa; áp dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại để tạo ra các sản phẩm có chất lượng, gia tăng giá trị, đáp ứng với nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế./.

Thi Nguyên (t/h)