Ngành tôm Việt Nam vượt thách thức trên lộ trình phát triển xanh bền vững

Lộ trình phát triển của ngành tôm Việt Nam bao gồm các giải pháp thúc đẩy sản xuất, chế biến, tiêu thụ cho chuỗi tôm xanh, ít phát thải và tạo cơ hội thúc đẩy liên kết giữa người sản xuất - hợp tác xã - doanh nghiệp, cơ sở chế biến - cơ quan quản lý theo hướng phát thải carbon thấp, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu.
nganh-tom-phat-trien-xanh-02-1709694679.jpg
Thời gian qua, các doanh nghiệp, trang trại và người nuôi đã áp dụng nhiều giải pháp, tiến bộ khoa học công nghệ vào nuôi tôm góp phần giảm lượng phát thải khí nhà kính. (Ảnh minh họa)

Nuôi tôm hướng tới hiệu quả cả kinh tế và môi trường

Việt Nam tham gia vào các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu, như Cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050; Giảm phát thải khí mê-tan 30% so với 2020; Tuyên bố Glasgrow về rừng và sử dụng đất nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng mất rừng vào năm 2030, đã tạo ra sự chuyển biến lớn về cách tiếp cận phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng minh bạch, trách nhiệm và bền vững hơn. Tại Phiên họp lần thứ tư Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nêu rõ "phát triển xanh chuyển đổi năng lượng và giảm phát thải là xu hướng tất yếu, không thể đảo ngược".

Hội thảo phát triển ngành tôm, ít phát thải và bền vững ở Việt Nam diễn ra vào cuối năm 2023 tại Bạc Liêu đã thu hút được sự quan tâm của các chuyên gia, nhà quản lý. Tại đây có nhiều ý kiến chia sẻ định hướng về phát triển tôm ở Việt Nam, các giải pháp thúc đẩy sản xuất, chế biến, tiêu thụ cho chuỗi tôm xanh, ít phát thải và tạo cơ hội thúc đẩy liên kết giữa người sản xuất - hợp tác xã - doanh nghiệp, cơ sở chế biến - cơ quan quản lý theo hướng phát thải carbon thấp, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhấn mạnh, hiện nay, Bộ đang làm thủ tục tham gia “Tuyên bố Emirates về Nông nghiệp bền vững, hệ thống lương thực thực phẩm có khả năng chống chịu và hành động vì khí hậu”, dự kiến sẽ thông qua tại Hội nghị lần thứ 28 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP28) vào tháng 12/2023.

Việc chuyển đổi hệ thống lương thực của Việt Nam theo hướng xanh, carbon thấp, bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu, tích hợp đa giá trị với hệ thống quản trị hiện đại, minh bạch gắn với quá trình chuyển đổi số và liên kết chặt chẽ giữa các chủ thể trong các chuỗi giá trị là một tất yếu, góp phần vào thực hiện các chiến lược, kế hoạch hành động quốc gia và các cam kết quốc tế của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Ông Nguyễn Trung Hiếu, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bạc Liêu cho biết, các chính sách của tỉnh về nuôi trồng thủy sản hướng tới giảm phát thải khí nhà kính và phát triển năng lượng tái tạo bao gồm nhiều chính sách liên quan đến lĩnh vực về ứng phó với biến đổi khí hậu; phát triển sản xuất theo hướng giảm phát thải; cơ chế chính sách hỗ trợ khuyến khích ứng phó với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính; phát triển năng lượng tái tạo và các chính sách liên quan đến bảo vệ môi trường, tài chính trong chuỗi giá trị tôm. Nuôi tôm thời gian tới phải hướng đến hiệu quả bền vững cả về kinh tế và môi trường.

nganh-tom-phat-trien-xanh-03-1709694664.jpg
Người dân huyện Hồng Dân (tỉnh Bạc Liêu) thu hoạch tôm trên nền đất lúa. (Ảnh TTXVN)

Nâng cao quản lý thúc đẩy triển chuỗi sản xuất tôm xanh

Cũng tại Hội thảo, các chuyên gia đã trình bày kết quả ban đầu về xây dựng và triển khai phần mềm quản lý chuỗi tôm của Dự án "Thúc đẩy đầu tư của tư nhân vào nông nghiệp carbon thấp và ứng phó biến đổi khí hậu, góp phần thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam" cho ngành hàng tôm tại Bạc Liêu; thực trạng nuôi trồng thủy sản và định hướng phát triển tôm ở Việt Nam; định hướng thị trường xuất khẩu và tiêu thụ trong nước cho sản phẩm tôm; phát triển chuỗi sản xuất tôm xanh: Dấu vết carbon và giải pháp giảm phát thải.

Theo ông Patrick Haveman, Phó Đại diện Chương trình phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều tiềm năng để tái cấu trúc lại các chuỗi sản xuất cung ứng tôm tự nhiên với giá trị cao. Hiện nay, ở Bạc Liêu, Cà Mau, Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang và Bến Tre, nhiều cơ sở kinh doanh và hợp tác xã quy mô nhỏ và vừa có vùng nuôi tôm dựa vào tự nhiên. Nhiều nơi đã có các dòng sản phẩm tôm rừng, tôm lúa, tôm sạch nhưng chưa được tập trung quản lý và chứng nhận đúng với giá trị chất lượng tương xứng. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần có cơ chế khuyến khích các cơ sở và trang trại nhỏ và vừa này tăng cường liên kết hợp tác để tạo ra một dòng sản phẩm tôm hữu cơ, tôm sinh thái có thương hiệu đặc thù của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Song song với đó, chính quyền địa phương cần tạo điều kiện để giúp các cơ sở sản xuất này có truy xuất nguồn gốc và dấu chân carbon cho các dòng tôm sinh thái này. Từ đó, góp phần mở rộng và ổn định nguồn cung ứng tôm chất lượng cao, đáp ứng cho các chuối cung ứng tiêu dùng cao cấp trong nước hoặc xuất khẩu đi các thị trường quốc tế.

Tại Hội thảo, các chuyên gia đã nhấn mạnh tầm quan trọng của quản lý và giảm phát thải liên quan đến bảo vệ môi trường; đề xuất các giải pháp và công nghệ giúp giảm phát thải trong ngành nuôi tôm và chế biến xuất khẩu; chia sẻ kinh nghiệm trong việc phát triển mô hình nuôi tôm bền vững, hướng tới sản xuất sạch và thân thiện với môi trường; ứng dụng khoa học - công nghệ nhằm giảm phát thải trong nuôi và chế biến tôm và thúc đẩy chuỗi giá trị tôm - lúa theo hướng chứng nhận quốc tế, hữu cơ...

Để con tôm đạt tiêu chí xanh đòi hỏi phải đồng bộ cả chuỗi giá trị

Chia sẻ với báo chí về lộ trình xanh hóa ngành tôm, PGS.TS. Võ Nam Sơn (Trường Đại học Cần Thơ), cho rằng, ở khâu nuôi tôm, từ các dạng năng lượng, như: xăng, dầu, điện, cho đến các loại vật tư đầu vào phục vụ quá trình nuôi, như: vôi, phân bón, thức ăn, chế phẩm sinh học… đều gây ra phát thải. Theo đó, lượng phát thải khí nhà kính mà nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Cần Thơ đo được (kgCO2/kg tôm tươi) đối với mô hình nuôi thâm canh là 9,3; nuôi siêu thâm canh là 11,7; nuôi siêu thâm canh theo ASC là 12,5.

Trong khi đó, như trên đã nói, để con tôm đạt tiêu chí xanh đòi hỏi phải đồng bộ cả chuỗi giá trị; trong đó, mắc xích yếu nhất hiện nay chính là ở khâu nuôi. Không nói đâu xa, ngay cả các doanh nghiệp hay trang trại nuôi tôm lớn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hiện cũng canh cánh nỗi lo về vấn đề này, nhất là ở tiêu chí phát thải khí nhà kính, tiêu chí về tuần hoàn, tái chế…

Thời gian qua, các doanh nghiệp, trang trại và người nuôi đã áp dụng nhiều giải pháp, tiến bộ khoa học công nghệ vào nuôi tôm góp phần giảm lượng phát thải khí nhà kính, như: nuôi tuần hoàn nước, ứng dụng công nghệ vi sinh, tiết kiệm điện thông qua việc cải tiến hệ thống quạt tạo oxy, quản lý tốt thức ăn để hạn chế tình trạng dư thừa làm phát sinh khí nhà kính, lắp đặt hầm biogas để xử lý chất thải, xử dụng máy ép phân tôm ủ làm phân bón…

nganh-tom-phat-trien-xanh-01-1709694756.jpg
Xây dựng hầm ủ biogas, áp dụng máy ép phân, hệ thống xi phông tự động đã góp phần chủ động giảm đáng kể phát thải khí nhà kính trong quá trình nuôi tôm. (Ảnh minh họa)

Tuy riêng lẻ và tự phát, nhưng các giải pháp trên đều cho thấy mức độ giảm phát thải khí nhà kính trong nuôi tôm đã giảm đáng kể. Thậm chí, có doanh nghiệp chủ động xin lãnh đạo tỉnh và ngành nông nghiệp chủ trương trồng rừng phòng hộ ven biển để bù vào lượng phát thải khí nhà kính trong quá trình nuôi tôm. Đây là cách làm rất hay, nhưng theo doanh nghiệp này cho biết, vẫn chưa thể triển khai được, do muốn trồng rừng doanh nghiệp phải có dự án, mà điều này thì nằm ngoài tầm với của doanh nghiệp chuyên về chế biến tôm, còn nếu thuê tư vấn thì chi phí lên đến 400-500 triệu đồng.

Theo đánh giá của PGS.TS. Võ Nam Sơn, việc ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào nuôi tôm để giảm phát thải khí nhà kính bước đầu cho thấy hiệu quả tích cực. Các mô hình, giải pháp thử nghiệm nuôi tôm giảm phát thải khí nhà kính do các chương trình, dự án triển khai cho kết quả khả quan nên vấn đề còn lại là việc tích hợp đồng bộ các giải pháp này vào từng mô hình cụ thể để vừa đảm bảo tính hiệu quả về mặt kinh tế, vừa đảm bảo tiêu chí bền vững. Còn theo ông Lực, trong khi chờ đợi các chuẩn mực cụ thể được ban hành, các doanh nghiệp cần sớm nhận thức và có tâm thế chuẩn bị sẽ chủ động hơn trong việc tiếp cận và đạt chuẩn doanh nghiệp xanh sau này. Mọi sự chuẩn bị cho lâu bền đều không thừa, nhất là khi bài học từ ngành may là lời nhắc nhở, cảnh báo hết sức thiết thực./.

Năm 2023, cả nước nuôi tôm nước lợ 737.000ha, cơ bản không tăng so với năm 2022 (Diện tích tôm sú 622.000 ha, tôm thẻ chân trắng 115.000 ha). Sản lượng 1.120.000 tấn (tăng 5,5% so với năm 2022), trong đó, tôm sú 274.000 tấn và tôm thẻ chân trắng hơn 845.000 tấn. Sản xuất tôm giống đạt khoảng 150 tỷ con (tôm thẻ chân trắng 108 tỷ con; tôm sú: 42 tỷ con). Kim ngạch xuất khẩu đạt 3,45 tỷ USD (giảm 19,8% so với năm 2022). Theo Kế hoạch hành động quốc gia phát triển ngành tôm Việt Nam, mục tiêu đến năm 2025, tổng diện tích nuôi tôm nước lợ đạt 750.000 ha; tổng sản lượng tôm nuôi đạt trên 1 triệu tấn; tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm tôm đạt 10 tỉ USD.

Bình Nguyên