Thị trường tín chỉ carbon thế giới đang sôi động
Theo thông tin từ các tổ chức nghiên cứu thị trường Carbon thế giới, hiện có khoảng 73 cơ chế carbon, tính cả ở thị trường tự nguyện và bắt buộc, đang được vận hành ở cấp quốc gia và cấp địa phương. Hiện, các cơ chế này đang phủ khoảng 23% trong tổng lượng phát thải khí nhà kính (GHG) toàn cầu. Vận hành của các cơ chế này đã huy động được khoảng 100 tỷ USD trong năm 2022. Các cơ chế trong thị trường carbon bắt buộc chiếm vai trò chủ đạo, với khoảng 98% tổng nguồn thu được tạo ra từ các cơ chế này (2% còn lại là từ các cơ chế của thị trường tự nguyện).
Đối với thị trường carbon tự nguyện, con số thống kê của Chương trình Ecosystem Marketplace của Forest Trends cho thấy giai đoạn 2021-2023 có 1.530 dự án carbon tại 98 quốc gia khác nhau. Lượng carbon giao dịch khoảng 254 triệu tấn với kim ngạch khoảng gần 1,9 tỷ USD. Lượng tín chỉ carbon giao dịch trong khuôn khổ chương trình carbon tự nguyện năm 2022 giảm 51% so với lượng giao dịch năm 2021. Tuy nhiên, giá mua bán tín chỉ carbon tăng mạnh (82%) từ mức 4,04 USD/tấn lên 7,37 USD/tấn năm 2022. Thống kê của Ecosystem Marketplace cho thấy giá tín chỉ carbon năm 2023 giảm so với 2022, ở mức 6,97 USD/tấn.
Những dự án tín chỉ carbon được hình thành trong các mảng như lâm nghiệp và sử dụng đất, năng lượng tái tạo, nông nghiệp, giao thông… có lượng giao dịch và giá tín chỉ carbon từ các loại hình dự án này khác nhau.
Theo Ecosystem Marketplace, năm 2022, các dự án carbon trong lĩnh vực lâm nghiệp và sử dụng đất nhận được sự quan tâm nhiều nhất, với trên 113 triệu tín chỉ được giao dịch với mức giá 10,14 USD/tấn. Lượng tín chỉ giao dịch trong các dự án năng lượng tái tạo cũng tương đối lớn (92,5 triệu tấn), tuy nhiên tín chỉ từ nguồn này rất thấp, khoảng 4,16 USD/tấn, thấp hơn nhiều so với mức giá của tín chỉ được hình thành trong các dự án carbon nông nghiệp (11 USD/tấn).
Tính đa dạng còn thể hiện trong mỗi loại hình của dự án. Ví dụ trong loại hình carbon lâm nghiệp và sử dụng đất, các dự án trồng, phục hồi rừng và tăng độ che phủ đất nhận được sự quan tâm vừa phải, với 9,9 triệu tấn carbon được giao dịch trong năm 2022, với mức giá 11,79 USD/tấn, trong khi tín chỉ từ các dự án REDD+ (giảm phát thải do mất rừng và suy thoái rừng) nhận được sự quan tâm lớn, với 58,5 triệu tấn carbon được giao dịch, với mức giá 10,26 USD/tấn.
Các dự án thường áp dụng các tiêu chuẩn khác nhau và do vậy, giá carbon cũng khác nhau. Theo Ecosystem Marketplace, năm 2022, các dự án áp dụng tiêu chuẩn VCS (Voluntary Carbon Standards) có lượng giao dịch 79,3 triệu tấn carbon, với mức giá 9,14 USD/tấn.
Các dự án áp dụng tiêu chuẩn CDM (Clean Development Mechanism) có lượng giao dịch tương đối lớn (51,7 triệu tấn), tuy nhiên có mức giá rất thấp (2,84 USD/tấn). Các dự án sử dụng tiêu chuẩn GS (Gold Standards) có lượng giao dịch nhỏ (11,8 triệu tấn), tuy nhiên mức giá carbon tương đối cao (8,35 USD/tấn).
Hiện, nhiều người, tổ chức mua đang tìm kiếm các dự án có chứng nhận về các tiêu chuẩn khác đính kèm với carbon, như tiêu chuẩn về Khí hậu, Cộng đồng và Đa dạng sinh học (CCB); tiêu chuẩn về Carbon xã hội (Social carbon).
Thống kê của Ecosystem Marketplace cho thấy: năm 2022, giá carbon từ các dự án không có đồng lợi ích là 5,94 USD/tấn, trong khi giá carbon đính kèm với đồng lợi ích đạt 10,6 USD/tấn. Ngoài ra, các dự án có lồng ghép các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) cũng đạt mức giá bán cao (11,58 USD/tấn) hơn hẳn so với các dự án không có các mục tiêu này (6,23 USD/tấn).
Các con số nêu trên cho thấy sự không đồng nhất của thị trường carbon, với các mức giá carbon khác nhau được xác định dựa trên các loại hình dự án khác nhau, tiêu chuẩn carbon được các dự án áp dụng và các lợi ích đính kèm với carbon trong các dự án này.
Triển vọng của thị trường carbon Việt Nam và thời cơ của doanh nghiệp
Với tổng diện tích 14,7 triệu ha, Việt Nam có tiềm năng huy động một nguồn tài chính từ các dự án carbon lâm nghiệp để bảo vệ và phát triển rừng. Một số tính toán cho thấy mỗi năm rừng của Việt Nam có thể hấp thụ khoảng gần 70 triệu tấn carbon. Chính phủ Việt Nam đang tham gia thị trường carbon bắt buộc, với cam kết giảm phát thải khu vực Bắc Trung Bộ đổi lại là việc cung cấp 10,3 triệu tấn carbon và khoản chi trả 51,5 triệu USD từ Ngân hàng Thế giới.
Chính phủ cũng đang đàm phán với Liên minh Giảm phát thải (LEAF) và dự kiến trong tương lai sẽ huy động được một nguồn tài chính tương đương từ Liên minh này thông qua hoạt động bảo vệ rừng ở khu vực Tây Nguyên và Nam Trung Bộ.
Rừng của Việt Nam có tiềm năng huy động được nguồn tài chính thông qua thị trường carbon tự nguyện. Hiện mối quan tâm từ các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước với các dự án carbon lâm nghiệp rất lớn. Tuy nhiên, Chính phủ hiện chưa có các chính sách hướng dẫn về loại hình đầu tư này.
Do đó, khuyến nghị Chính phủ nên cân nhắc ban hành các cơ chế chính sách trong thời gian sớm, nhằm kích hoạt các dự án carbon lâm nghiệp, nhằm đáp ứng cả thị trường bắt buộc và tự nguyện. Hiệu quả của các cơ chế, chính sách không chỉ phụ thuộc vào việc huy động kinh phí, mà còn phụ thuộc vào nguồn kinh phí này được sử dụng ra sao để có thể tối đa hóa hiệu quả của công tác bảo vệ và phát triển rừng.
Thời điểm hiện tại, nhiều doanh nghiệp đã quan tâm đến việc tạo tín chỉ carbon để trung hòa phát thải, yêu cầu tất yếu để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu...
Trong danh sách 1.912 doanh nghiệp phải kiểm kê khí nhà kính năm 2023, có rất nhiều doanh nghiệp lớn phải lập kế hoạch giảm thiểu khí thải trong thời gian tới. Doanh nghiệp Nhật Bản Panasonic mới đây cho biết, doanh nghiệp này đã phủ xanh 79 héc-ta đất rừng trên khắp cả nước với 355.000 cây xanh.
Ngoài ra, Panasonic cũng có kế hoạch hỗ trợ khách hàng và xã hội trong việc giảm phát thải bằng sản phẩm và giải pháp tiết kiệm năng lượng như pin mặt trời perovskite và Kinari, một giải pháp vật liệu bền vững thay thế nhựa. Tất cả những giải pháp này đều hướng đến mục tiêu đạt mức phát thải ròng CO2 bằng 0 tại tất cả công ty thành viên vào năm 2030, bao gồm cả ở Việt Nam.
Tại Đồng Nai, ông Nguyễn Đạo Hữu, Giám đốc nhà máy Công ty TNHH Nhựa và hóa chất TPC Vina (KCN Gò Dầu, H.Long Thành) cho rằng, Việt Nam chưa bắt buộc thực hiện giảm phát thải khí nhà kính nhưng nhiều thị trường nước ngoài đã khá khắt khe với việc này. Do đó, trong năm 2023, công ty đã đầu tư hệ thống lò đốt chất thải để thu hồi hơi thay vì đốt bỏ như trước, việc này giúp công ty tiết kiệm được dầu dùng để đốt, tránh lãng phí chất thải, thu được nhiệt. Bên cạnh đó, công ty ký hợp đồng với nhà thầu lắp đặt hệ thống điện năng lượng mặt trời, dự kiến vận hành vào đầu năm 2024.
Cùng với xu thế chuyển đổi sản xuất xanh, phát triển các vùng trồng, vùng nguyên liệu sạch, nhiều doanh nghiệp cho biết họ đang chờ chính sách về triển khai thị trường tín chỉ carbon để tận dụng nguồn thu nhập mới này. Tại huyện Cần Giờ, Công ty cổ phần Dừa nước Việt Nam (VietNipa) cho biết sau khi có chính sách về giao dịch tín chỉ carbon, giá trị cây dừa nước có thể tăng gấp 50 - 100 lần.
Ông Phan Minh Tiến, Giám đốc VietNipa, thông tin thêm một héc-ta dừa nước có thể hấp thụ 137 tấn carbon/năm. Trong khi đó, việc khai thác mật dừa nước của Công ty còn làm tăng lượng carbon được hấp thụ và chuyển hóa. Vì vậy, nếu có cơ chế, quy định, thì việc bán tín chỉ carbon là điều hoàn toàn có thể.
Ông Phạm Văn Việt, Tổng giám đốc Công ty Việt Thắng Jean, cho biết chuẩn bị cho năm 2024, doanh nghiệp đã sử dụng công nghệ 3D để thiết kết, rút ngắn 1/4 thời gian so với trước, dùng laser để in, cắt, phun màu cho vải... Ngoài ra, doanh nghiệp còn lắp đặt hệ thống xử lý nước thải tuần hoàn Eco, sản xuất theo tiêu chuẩn xanh của Châu Âu.
“Doanh nghiệp đang chuyển đổi công nghệ mới và thay đổi từng ngày, hướng tới các tiêu chuẩn doanh nghiệp xanh, sản phẩm xanh theo tiêu chuẩn EU. Do đi trước nên lộ trình nên đến năm 2028 khi áp dụng tín chỉ các carbon thì doanh nghiệp chúng tôi có thể thu lại, bán cho thị trường tín chỉ carbon”, ông Phạm Văn Việt chia sẻ./.