
Thị trường tín chỉ carbon tạo lợi thế kinh tế lớn cho trồng rừng gỗ lớn
Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&MT) cho biết, tổng diện tích rừng trồng keo hiện nay ở Việt Nam là hơn 1 triệu ha (chiếm hơn 30% tổng diện tích rừng trồng toàn quốc) và là nguồn nguyên liệu chính cho các ngành công nghiệp sản xuất giấy và bột giấy, ván nhân tạo, dăm gỗ và sản xuất đồ gỗ phục vụ xuất khẩu.
Keo là một trong những loài cây lấy gỗ được trồng nhiều tại Việt Nam nhờ sinh trưởng nhanh, thường đạt khoảng 90m3 gỗ tròn sau 6 năm. Nếu người dân không khai thác gỗ non mà để lại chăm sóc thêm 5 - 6 năm nữa, trở thành rừng gỗ lớn mới khai thác, khi đó trữ lượng gỗ sẽ tăng gấp đôi, giá bán cũng cao gấp 2 - 3 lần.
Keo là loại cây khá điển hình trong trồng rừng hiện nay, theo tính toán của ngành lâm nghiệp, người trồng rừng gỗ nhỏ phải 2 lần đầu tư, với chi phí trung bình khoảng 60 triệu đồng/ha, thì rừng gỗ lớn chỉ cần đầu tư 1 lần, với tổng chi phí trung bình khoảng 40 triệu đồng/ha, chu kỳ trồng rừng gỗ lớn tuy gấp đôi, nhưng hiệu quả kinh tế lại cao gấp 2 - 3 lần rừng gỗ nhỏ.
Từ trước đến nay việc trồng rừng gỗ nhỏ vẫn được người dân thực hiện bởi nhu cầu tài chính trước mắt và do thói quen canh tác. Tuy nhiên với sự rộng mở về thị trường tín chỉ Carbon sẽ tạo ra lợi thế kinh tế lớn cho những người trồng rừng gỗ lớn.
Theo nghiên cứu của các chuyên gia Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, trên cơ sở áp dụng phương pháp của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC), lượng carbon được hấp thụ bởi rừng nghèo khoảng 30 - 140 tấn/ha, rừng trung bình trong khoảng 175 - 320 tấn/ha và rừng giàu trong khoảng 480 - 1.000 tấn/ha. Ngoài ra, rừng nguyên sinh có khả năng lưu giữ carbon nhiều hơn khoảng 60% so với rừng trồng. Để thu hẹp khoảng cách này, những nhà khoa học khuyến cáo người dân tăng cường trồng rừng gỗ lớn.
Trong năm 2023, Việt Nam lần đầu bán được hơn 10 triệu tín chỉ carbon, thu về hơn 50 triệu USD. Đây là tín hiệu đáng mừng cho ngành lâm nghiệp có thể tham gia thị trường tín chỉ carbon thế giới. Ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, Bộ NN&MT nhận định: "Phát triển thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam lúc này là phù hợp. Điều này sẽ giúp Việt Nam tiến gần hơn và bắt kịp với xu hướng tăng trưởng xanh của thế giới, đồng thời giúp người dân có thêm nguồn thu".

Lâm nghiệp là lĩnh vực đang phát thải âm và được đánh giá là có nhiều tiềm năng để thực hiện trao đổi, chuyển nhượng hay thương mại hóa tín chỉ carbon rừng.
Lãnh đạo Cục Lâm nghiệp nhận định, khi giao dịch trên thị trường tín chỉ carbon, các chủ rừng sẽ có thêm động lực để tiếp tục giữ rừng, bảo vệ rừng ngày càng tốt hơn. Bên cạnh đó, họ còn được nâng cao nhận thức về giá trị của rừng và ngày càng có trách nhiệm hơn, cũng như hình thành tư duy sản xuất, quản trị rừng chuyên nghiệp hơn, từ bỏ dần thói quen xâm hại rừng.
Đầu năm 2024, Bộ NN&PTNT (nay là Bộ NN&MT) đã ban hành Kế hoạch "Phát triển rừng trồng sản xuất gỗ lớn giai đoạn 2024 - 2030". Theo đó, đến năm 2030, tổng diện tích rừng trồng sản xuất gỗ lớn đạt khoảng 1 triệu ha, trong đó duy trì diện tích rừng trồng gỗ lớn hiện có là 500 nghìn ha và phát triển mới giai đoạn 2024 - 2030 khoảng 450 nghìn - 550 nghìn ha.
Cùng với đó, Bộ đặt mục tiêu nâng cao năng suất rừng trồng thâm canh cây keo, bạch đàn và các loài cây lâm nghiệp khác trung bình đạt 20 m3/ha/năm vào năm 2025 và 22 m3/ha/năm vào năm 2030; giá trị thu nhập từ rừng trồng sản xuất tăng bình quân khoảng 1,5 - 2 lần/đơn vị diện tích so với năm 2020; nâng cao chuỗi giá trị sản xuất lâm nghiệp.
Kế hoạch cũng vạch rõ 6 vùng trồng tập trung 500.000ha rừng mới. Cụ thể, vùng trung du và miền núi phía Bắc 130.000 - 146.000ha; vùng đồng bằng sông Hồng 6.000 - 9.000 ha; vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 280.000 - 348.000 ha; vùng Tây Nguyên 25.000 - 35.000 ha; vùng Đông Nam bộ 7.500 - 10.000 ha; vùng Tây Nam bộ 1.500 - 2.000 ha.
Cần có thêm chính sách hỗ trợ phát triển rừng trồng nguyên liệu gỗ lớn
Trong số diện tích rừng sản xuất, hiện cả nước mới chỉ có gần 500 nghìn ha rừng trồng cây gỗ lớn, còn lại 3,5 triệu ha trồng cây gỗ nhỏ, thu hoạch khi cây chưa đến 10 năm tuổi. Phần lớn gỗ rừng trồng thu hoạch chủ yếu chỉ phục vụ nguyên liệu cho sản xuất gỗ công nghiệp, gỗ ghép thanh và bán dăm gỗ. Từ đó dẫn đến lợi nhuận rừng trồng ở nước ta quá thấp. Trong khi đó, hàng năm nước ta vẫn phải nhập khẩu khối lượng gỗ khá lớn để phục vụ ngành sản xuất đồ gỗ.
Theo tính toán của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Bắc Giang cho thấy, nếu chủ rừng khai thác gỗ nhỏ ở năm thứ 6 để sản xuất và bán làm dăm gỗ, giá trị đạt khoảng 80 triệu đồng/ha, thu nhập bình quân đạt từ 12 - 15 triệu đồng/ha/năm. Nhưng nếu đợi 10 - 14 năm để khai thác gỗ lớn, sản lượng sẽ đạt từ 200 - 240 m3/ha và hầu hết cây gỗ đạt đường kính trên 18cm. Khi đó, gỗ sẽ được bán theo giá gỗ xẻ với giá từ 1,8 - 2 triệu đồng/m3, tức khoảng 250 - 300 triệu đồng/ha, lợi nhuận bình quân đạt từ 22 - 25 triệu/ha/năm. Trong khi người trồng rừng gỗ nhỏ phải tới 2 lần đầu tư, với chi phí trung bình khoảng 60 triệu đồng/ha, thì rừng gỗ lớn chỉ cần đầu tư 1 lần, với tổng chi phí trung bình khoảng 40 triệu đồng/ha. Như vậy, chu kỳ trồng rừng gỗ lớn tuy gấp đôi, nhưng hiệu quả kinh tế lại cao gấp 2 - 3 lần rừng gỗ nhỏ.
Tuy vậy, phát triển trồng rừng cây gỗ lớn ở nước ta vẫn rất chậm so với mục tiêu đề ra. Nhiều nguyên nhân khiến người dân chưa mặn mà với trồng rừng cây gỗ lớn, đó là chu kỳ trồng rừng gỗ lớn quá dài, nông dân thiếu vốn đầu tư lâu dài, trong khi họ cần có thu nhập nhanh để đảm bảo cuộc sống hàng ngày... Đáng chú ý, nhiều diện tích đất sản xuất lâm nghiệp đã được giao cho người dân, nhưng vẫn chưa cấp sổ đỏ, khiến người dân e ngại không dám đầu tư lâu lài.
Tại tỉnh Quảng Bình đã triển khai thực hiện nhiều chương trình, dự án nhằm đẩy mạnh phát triển trồng rừng gỗ lớn (RGL), như: “Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2021-2025”, hỗ trợ trồng RGL cho các hộ gia đình với tổng diện tích 1.000ha, kinh phí 7,92 tỷ đồng; “Hỗ trợ thí điểm mô hình trồng rừng phòng tránh thiên tai”, hỗ trợ trồng RGL cho người dân tại xã Trường Sơn (Quảng Ninh) và xã Kim Thủy (Lệ Thủy) với diện tích 200ha, kinh phí 3,13 tỷ đồng...
Tỉnh còn thực hiện hỗ trợ trồng RGL từ kinh phí trồng rừng thay thế (Quỹ bảo vệ và phát triển rừng); chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững; hỗ trợ từ Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025… để khuyến khích trồng RGL. Đây là hướng đi đúng với xu thế phát triển xanh và bảo vệ môi trường sinh thái hiện nay.
Theo Sở NN&MT cho biết, phát triển trồng RGL là nội dung quan trọng trong kế hoạch cơ cấu lại ngành Nông nghiệp tỉnh giai đoạn 2021-2025 và đề án “Phát triển vùng nguyên liệu gỗ rừng trồng gắn với trồng RGL tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2019-2025”, nhằm nâng cao chất lượng và giá trị rừng trồng, tạo nguồn nguyên liệu bền vững cho chế biến và xuất khẩu, góp phần bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế lâm nghiệp của tỉnh.

Nâng cao giá trị sản xuất, kinh doanh rừng trồng, bảo vệ môi trường và phát triển lâm nghiệp bền vững, trong đó có RGL là hướng đi đúng, nhưng cần có bước đi phù hợp, chắc chắn. Các địa phương cũng cần chú trọng đến hình thành vùng nguyên liệu gỗ công nghiệp và gỗ lớn, gắn với xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Việt Nam là quốc gia đang đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu lâm sản, gỗ, việc đảm bảo các chứng chỉ rừng bền vững càng có vai trò quan trọng. Để đưa nhiều sản phẩm vào Mỹ, các thị trường khó tính, đều đòi hỏi cần các chứng chỉ rừng bền vững giúp gia tăng giá trị sản phẩm lâm sản, tăng thu nhập cho người trồng rừng.
Phân tích về khó khăn, vướng mắc trong rừng trồng gỗ lớn, ông Vũ Thanh Nam, Trưởng phòng Sử dụng rừng, Cục Lâm nghiệp cho rằng, trồng rừng gỗ lớn không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cao hơn cho các hộ gia đình, mà còn giúp giảm xói mòn góp phần bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu. Hiệu quả của rừng gỗ lớn so với rừng gỗ nhỏ đã được khẳng định, song loại rừng này vẫn chưa phát triển tương xứng.
Theo ông Vũ Thành Nam, có nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ người trồng rừng như hỗ trợ 8 triệu đồng/ha để bà con trồng rừng gỗ lớn. Trong đó có các kể hoạch 5 năm như trong giai đoạn từ 2015 đến 2020 hay từ 2020 đến 2025…
Cũng theo ông Nam, hiện nay, Bộ NN&MT còn trình Chính phủ ban hành một số chính sách với việc cho vay người trồng rừng gỗ lớn phát triển kinh tế hiệu quả hơn. Đồng tình với quan điểm này, nhiều chuyên gia cũng cho rằng, để phát triển rừng trồng nguyên liệu gỗ lớn cần có thêm chính sách, hoạt động hỗ trợ, tạo động lực để nhiều hộ dân tham gia./.