Nội dung trên được nhấn mạnh tại hội nghị về về tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo tại ĐBSCL do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy chủ trì với sự tham gia của nhiều Bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp, hiệp hội của ngành lúa gạo.

Hai tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu 1,1 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 613 triệu USD
Trong thập kỷ qua, ngành lúa gạo Việt Nam đã chứng tỏ vai trò quan trọng trên bản đồ xuất khẩu thế giới. Giai đoạn 2016-2022, giá gạo 5% tấm dao động ổn định ở mức 420-535 USD/tấn. Đỉnh cao ghi nhận vào tháng 11/2023, khi giá đạt 663 USD/tấn – mức cao nhất trong 15 năm – nhờ Ấn Độ tạm dừng xuất khẩu gạo, tạo cơ hội cho Việt Nam chiếm lĩnh thị trường. Tuy nhiên, bước sang đầu năm 2025, giá gạo 5% tấm giảm mạnh xuống 393-400 USD/tấn, mất 40% so với cuối năm 2023, trở thành mức thấp nhất trong nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu như Thái Lan (450 USD/tấn), Ấn Độ, và chỉ nhỉnh hơn Pakistan.
Ông Ngô Hồng Phong, Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết năm 2025, tổng diện tích gieo cấy lúa cả nước dự kiến đạt 7,03 triệu ha, với năng suất trung bình 61,6 tạ/ha, sản lượng ước tính 43,14 triệu tấn, giảm nhẹ 323 nghìn tấn so với năm 2024. Riêng ĐBSCL, dự kiến đạt 24,057 triệu tấn từ 3,8 triệu ha, năng suất trung bình 63,09 tạ/ha. Tổng lượng gạo hàng hóa xuất khẩu ước tính 4,53 triệu tấn trong 6 tháng đầu năm và 3,012 triệu tấn trong 6 tháng cuối năm, đảm bảo nguồn cung dồi dào cho cả thị trường nội địa lẫn quốc tế.
Hai tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu 1,1 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 613 triệu USD, tăng 5,9% về lượng nhưng giảm 13,6% về giá trị do giá gạo toàn cầu điều chỉnh. Tại ĐBSCL, giá lúa hiện dao động từ 7.500-8.500 đồng/kg (lúa tươi) và 9.000-10.000 đồng/kg (lúa khô), vẫn đảm bảo lợi nhuận cho nông dân nhờ chi phí sản xuất ổn định. Ông Phong nhấn mạnh: "Dù giá giảm, năng lực sản xuất vững vàng là nền tảng để chúng ta vượt qua khó khăn và tận dụng cơ hội thị trường."
Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), sản lượng gạo toàn cầu tháng 2/2025 đạt kỷ lục 532,7 triệu tấn, tổng cung 712,15 triệu tấn (tăng 9,2 triệu tấn so với năm trước), trong khi tiêu thụ ước tính 530,5 triệu tấn, chủ yếu nhờ nhu cầu từ Trung Quốc và Indonesia. Thương mại gạo đạt 58,5 triệu tấn, tăng nhẹ 450 nghìn tấn so với dự báo trước đó. Tuy nhiên, việc Ấn Độ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu từ tháng 9/2024 đã đẩy nguồn cung tăng vọt, tạo áp lực lớn lên giá gạo toàn cầu.

Hiện tại, giá gạo Việt Nam (395-400 USD/tấn) thấp hơn 50 USD/tấn so với Thái Lan, phản ánh sức ép cạnh tranh từ nguồn cung dư thừa. Nhu cầu từ các thị trường lớn như Philippines và Indonesia cũng giảm do đã tích trữ đủ trong năm 2024, chờ giá giảm thêm. Dù vậy, ông Phong lạc quan: "Nhu cầu từ Trung Quốc, EU, Nhật Bản và các thị trường tiềm năng vẫn là điểm sáng. Chúng ta cần chủ động nắm bắt để củng cố vị thế".
Tại Hội nghị, ông Ngô Công Thức, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang, chia sẻ: năm 2024, tỉnh xuất khẩu 587.000 tấn gạo (340 triệu USD), và 2 tháng đầu năm 2025 đạt 29.900 tấn (15,2 triệu USD). Ông đề xuất Chính phủ hỗ trợ mời gọi các tập đoàn đầu tư vào chuỗi sản xuất – tiêu thụ tại ĐBSCL, kết hợp chính sách ưu đãi để doanh nghiệp tham gia sâu hơn. "An Giang cũng mong Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) kết nối xây dựng vùng nguyên liệu chất lượng cao, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu", ông Thức nói.
Phó Chủ tịch VFA Đỗ Hà Nam kiến nghị Ngân hàng Nhà nước cung cấp gói tín dụng lãi suất thấp, kéo dài thời gian vay để doanh nghiệp trữ gạo, chủ động giá bán thay vì bán thô ồ ạt. Ông Nam nhấn mạnh: "Trữ hàng chiến lược sẽ giúp biến thách thức thành cơ hội." VFA cũng đề xuất áp dụng giá sàn xuất khẩu 500 USD/tấn theo Nghị định 107/2018/NĐ-CP, đồng thời siết chặt kiểm tra các doanh nghiệp thương mại để đảm bảo chất lượng chuỗi cung ứng.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân đánh giá cao thành tựu năm 2024 với 9,18 triệu tấn gạo xuất khẩu (5,75 tỷ USD). Ông khẳng định: "Dù giá giảm đầu năm 2025, nền tảng sản xuất và kinh nghiệm thị trường là bệ đỡ để bứt phá". Bộ Công Thương sẽ đẩy mạnh đàm phán mở rộng thị trường mới, ưu tiên gạo chất lượng cao, đồng thời nghiên cứu kích hoạt dự trữ quốc gia và giá sàn để bình ổn giá.
Giá gạo giảm sâu không loại trù sự cạnh tranh không lành mạnh
Sau khi lắng nghe các báo cáo, ý kiến thảo luận, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đưa ra phân tích về tình hình thị trường hiện tại, năm 2024 với nhiều yếu tố thuận lợi, ngành lúa gạo Việt Nam đã tăng trưởng nóng. “Điều này dẫn đến việc thị trường điều chỉnh trong năm 2025, tăng càng nóng thì điều chỉnh càng sâu”, ông nói.
Tuy nhiên, ở góc nhìn toàn cảnh, vấn đề đặt ra là khi nguồn cung tăng, nhu cầu giảm giá gạo xuất khẩu của nhiều quốc gia cũng giảm theo xu hướng nhưng giá gạo của Việt Nam lại giảm sâu hơn.
Bộ trưởng cho rằng, điều này có thể xuất phát từ phía đối tác hoặc có thể là sự cạnh tranh không lành mạnh trong ngành. “Hiện tượng này cần được làm rõ, nhất là khi các thương lái và các khâu trung gian có thể đang làm giảm lợi nhuận của bà con nông dân, tác động đến tâm lý của họ”, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy chỉ đạo tại hội nghị.

Quay trở lại vấn đề giá gạo chùng xuống thời gian vừa qua, Bộ trưởng Đỗ Đức Đuy cho rằng, cần có những giải pháp ngắn hạn cũng như dài hạn để đối phó với khó khăn trước mắt, đồng thời duy trì phát triển bền vững ngành lúa gạo trong tương lai.
Về lâu dài, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường đưa ra 5 giải pháp. Thứ nhất, cải thiện cơ cấu sản xuất và chất lượng sản phẩm. Theo đó, chuyển mạnh hơn nữa sang các sản phẩm lúa gạo chất lượng cao. Đặc biệt, đối với diện tích mở rộng và tăng vụ, cần ưu tiên phát triển các giống lúa có chất lượng cao.
Ông cũng khẳng định, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tiếp tục triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp, nghiên cứu giống lúa chịu hạn, chịu mặn, kháng sâu bệnh để đối phó với biến đổi khí hậu.
Thứ hai, tăng cường chế biến sâu và đa dạng hóa sản phẩm, chuyển đổi từ xuất khẩu thô sang các sản phẩm chế biến sâu. Đây là hướng đi quan trọng để gia tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm lúa gạo.
Ba là, đẩy mạnh đầu tư vào hạ tầng và logistics. Qua đó, cải thiện hệ thống kho bãi, bảo quản, giao thông và logistics để giảm chi phí vận chuyển, tối ưu hóa chuỗi cung ứng.
Giải pháp thứ tư, xây dựng thương hiệu gạo bền vững và thân thiện môi trường. Cùng với đó, chú trọng phát triển các thị trường khó tính nhưng tiềm năng như Nhật Bản, châu Âu và Mỹ.
Cuối cùng, mở rộng và đa dạng hóa thị trường bằng cách tăng cường xuất khẩu sang các thị trường mới như Trung Đông, châu Phi và các thị trường chất lượng cao. Đẩy mạnh đàm phán các FTA với các thị trường này và xây dựng thỏa thuận hợp tác cấp Chính phủ để tận dụng cơ hội xuất khẩu.
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tất cả các giải pháp đưa ra cần được tính toán kỹ lưỡng để đảm bảo các tác động tích cực, tránh các tác động tiêu cực, đặc biệt đối với bà con nông dân và cộng đồng doanh nghiệp.
"Chúng ta cần thận trọng nhưng phải quyết đoán, nhanh nhạy nhưng phải chắc chắn để có thể ứng phó hiệu quả với tình hình thị trường xuất khẩu hiện nay", Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhấn mạnh.
Các địa phương ĐBSCL sẽ đảm bảo sản lượng và diện tích như kế hoạch
Với những định hướng như trên, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đã truyền đạt đến các đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các Bộ, ngành liên quan cũng như các địa phương, doanh nghiệp 8 nhóm giải pháp cụ thể cho ngành hàng lúa gạo.
Đầu tiên, không điều chỉnh kế hoạch sản xuất của năm nay, các địa phương ĐBSCL sẽ đảm bảo sản lượng và diện tích như kế hoạch.
Thứ hai, phát triển bền vững mô hình sản xuất lúa gạo chất lượng cao. Bộ sẽ triển khai hiệu quả Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở ĐBSCL. Mục tiêu là giảm phát thải trong quá trình sản xuất, từ đó giúp giảm chi phí, nâng lợi nhuận cho bà con nông dân.

Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cũng biểu dương Kiên Giang đã chủ động, linh hoạt triển khai hiệu quả Đề án này với diện tích đến nay là 69.299ha.
Thứ ba, theo dõi sát những biến động của thị trường gạo quốc tế, từ các quốc gia xuất khẩu lớn đến các thị trường nhập khẩu mạnh. Cùng với đó là nắm bắt những thị trường mới, tiềm năng. "Bộ sẽ thường xuyên cập nhật thông tin sản xuất và xuất khẩu gạo để các địa phương và doanh nghiệp có thể điều chỉnh kịp thời", Bộ trưởng Đỗ Đức Duy chia sẻ.
Hai giải pháp tiếp theo là nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, chế biến lúa gạo và cải thiện hệ thống lưu trữ, bảo quản lúa gạo.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy tiếp tục nêu giải pháp số sáu, đó là tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về kế hoạch sản xuất, thình hình thị trường. Thứ bảy, đẩy mạnh thị trường xuất khẩu và tăng cường liên kết sản xuất.
Người đứng đầu ngành nông nghiệp và môi trường nhấn mạnh: “Bộ sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, thành lập các đoàn kiểm tra liên ngành nhằm đánh giá tình hình triển khai sản xuất, thu mua, và xuất khẩu gạo. Cần tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp và bảo vệ các doanh nghiệp lớn có khả năng liên kết chặt chẽ với nông dân và chính quyền địa phương”.
Và giải pháp thứ tám là đảm bảo tín dụng hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp. Theo Bộ trưởng, các thủ tục tín dụng cần được đơn giản hóa để doanh nghiệp và bà con nông dân có thể dễ dàng tiếp cận và sử dụng nguồn vốn phục vụ sản xuất.
Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoàn thuế, tạo cơ chế thông thoáng cho hoạt động xuất nhập khẩu
Trao đổi với các Bộ, ngành, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cho rằng, các cơ quan ban ngành cần đưa ra những giải pháp đồng bộ và quyết liệt để ngành lúa gạo Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao giá trị và khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế.
Chia sẻ tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Sinh Nhật Tân nêu rõ, Bộ đang tìm kiếm những thị trường mới và đàm phán với các thị trường cũ để đảm bảo tính dài hạn cho xuất khẩu lúa gạo. Nhưng đồng thời, Thứ trưởng Bộ Công thương cũng đưa ra yêu cầu về điều chỉnh cơ cấu về chất lượng, chủng loại gạo, tập trung vào những loại chất lượng cao.
Nhất trí về giải pháp đa dạng hóa thị trường, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Hằng đưa ra thêm thông tin về việc tháng 3-5 sắp tới là cao điểm thu hoạch lúa gạo của Ấn Độ nên ngành nông nghiệp cần có biện pháp chuẩn bị phù hợp.

Nữ Thứ trưởng Bộ Ngoại giao cũng đề cập đến việc thu hút thêm đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, cả từ các doanh nghiệp trong nước lẫn quốc tế, và ngành ngoại giao sẽ tích cực hỗ trợ Bộ Nông nghiệp và Môi trường về vấn đề này.
Kết luận lại, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đề nghị Bộ Tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoàn thuế, tạo cơ chế thông thoáng cho hoạt động xuất nhập khẩu. Cùng với đó, đánh giá tình hình nhập khẩu gạo từ Campuchia, nghiên cứu đưa ra giải pháp thay thế.
Với Bộ Ngoại giao là tăng cường nắm bắt, truyền tải thông tin thị trường cũng như các chính sách nông sản các nước. Trong khi đó, các địa phương cần chỉ đạo quyết liệt về phát triển bền vững ngành lúa gạo, trong đó có Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở ĐBSCL.
Liên quan vấn đề giá cả, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cho rằng, đây là sự điều chỉnh thông thường, nên cần tuyên truyền để tiếp tục sản xuất, không tự động chuyển đổi cây trồng.

Đặc biệt, Bộ trưởng nhấn mạnh, các địa phương phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các thương lái và doanh nghiệp đầu mối. “Việc này là cần thiết để tránh tình trạng ép giá nông dân trong thời điểm khó khăn”, ông nói.
Cuối cùng, Bộ trưởng nhấn mạnh: "Tôi xin khẳng định, chúng ta không cần phải "giải cứu" ngành lúa gạo nhưng phải hành động kiên quyết và linh hoạt. Thị trường sẽ phục hồi khi các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân được triển khai hiệu quả"./.