Minh bạch nguồn gốc nông sản cách tiếp cận thị trường thông minh và bền vững

Truy xuất nguồn gốc là một trong những vấn đề trọng tâm của chuyển đổi số nông nghiệp giúp nâng cao chất lượng và minh bạch nguồn gốc nông sản. Để số hóa trong truy xuất nguồn gốc nông sản thực sự đi vào thực tiễn, có tính hiệu quả cao, rất cần sự tham gia, phối hợp của tất cả các bên, từ quản lý nhà nước tới doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân.
minh-bach-nguon-goc-nong-san-02-1710725121.jpg
Tính đến nay, cả nước có 6.883 mã số vùng trồng xuất khẩu đã được cấp cho 25 sản phẩm (phân bố tại 54/63 tỉnh, thành phố) sang 11 thị trường. (Ảnh minh họa)

Minh bạch từ vùng trồng tới cơ sở đóng gói

Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tính đến nay, cả nước có 6.883 mã số vùng trồng xuất khẩu đã được cấp cho 25 sản phẩm (phân bố tại 54/63 tỉnh, thành phố) sang 11 thị trường; trong đó, Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có số lượng mã số vùng trồng lớn nhất cả nước với 3.975 mã (chiếm 57%) đang hoạt động. Riêng Đồng Tháp có 2.469 mã số vùng trồng được cấp, lớn nhất cả nước, Tiền Giang có 528 mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói, Bến Tre có 84 mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói.

Chỉ riêng tại tỉnh Tiền Giang, theo ông Nguyễn Văn Mẫn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, đã có 528 mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói của tỉnh thực hiện đúng các quy định hiện hành; trong đó, mã số vùng trồng được cấp sang thị trường Trung Quốc là 183, diện tích gần 19.151ha, với 7 chủng loại cây trồng, gồm Mít, thanh long, xoài, dưa hấu, chôm chôm, nhãn và sầu riêng. Tiền Giang có 307 mã số cơ sở đóng gói đã được cấp phục vụ xuất khẩu, cụ thể là thị trường Trung Quốc có 299 mã số, các thị trường khó tính có 8 mã số.

Để quản lý chặt mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Tiền Giang đã lập các đoàn kiểm tra liên ngành nhằm kiểm tra việc chấp hành quy định về sử dụng và duy trì các điều kiện, yêu cầu của mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói.

Thêm vào đó, Tiền Giang đang triển khai xây dựng thí điểm phần mềm cơ sở dữ liệu quản lý vùng trồng sầu riêng tại một số địa phương trồng sầu riêng trọng điểm. Theo đó, phần mềm thể hiện các thông tin của vùng trồng sầu riêng thành bản đồ, làm cơ sở nhân rộng bản đồ hóa toàn bộ vùng trồng sầu riêng và các cây trồng chủ lực của tỉnh.

Theo ông Nguyễn Quốc Toản, Giám đốc Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), hiện Việt Nam có 19.000 hợp tác xã nông nghiệp, 14.200 doanh nghiệp nông nghiệp, 7.500 cơ sở chế biến nông nghiệp, 9.400 siêu thị và chợ hạng 1… Đây là các dữ liệu cấu thành Big data của ngành nông nghiệp. Do đó, truy xuất nguồn gốc phải tổng thể và rất cụ thể.

Bên cạnh đó, nông nghiệp còn có quá nhiều cấu phần, chỉ tính riêng khâu sản xuất đã rất nhiều. Ngành nông nghiệp xác định sẽ xây dựng kiến trúc, công nghệ có lộ trình. Việc áp dụng sẽ ưu tiên các sản phẩm xuất khẩu chính ngạch, cùng với đó là quan tâm thị trường nội địa.

minh-bach-nguon-goc-nong-san-03-1710725158.jpg
Vừa qua, tỉnh Đắk Lắk thực hiện số hoá 10.000 cây sầu riêng nhằm thúc đẩy chuyển đổi số nông nghiệp.(Ảnh minh họa)

Ông Huỳnh Tấn Đạt, Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) chia sẻ, nguyên tắc để quản lý truy xuất nguồn gốc là chúng ta kiểm soát toàn bộ thông tin từ trang trại, vườn trồng đến sơ chế, đóng gói, chế biến, lưu kho, vận chuyển, phân phối và tiêu dùng. Vườn trồng hoặc cơ sở đóng gói có nhu cầu đăng ký mã số thì trước tiên phải bảo đảm tuân thủ các yêu cầu của nước nhập khẩu.

Hiện nay, Cục Bảo vệ thực vật đang xây dựng phần mềm quản lý cơ sở đóng gói. Các chủ cơ sở đóng gói có thể liên hệ với Cục Bảo vệ thực vật để có tài khoản dùng thử.

Đồng thời, Cục Bảo vệ thực vật đã xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói xuất khẩu. Hệ thống sử dụng cho các cơ quan quản lý (Cục Bảo vệ thực vật và cơ quan đầu mối tại các địa phương) và kết nối dữ liệu với “Nhật ký đồng ruộng” và trong tương lai là phần mềm về “quản lý cơ sở đóng gói”.

Minh bạch nguồn gốc giúp nông sản thuận lợi trong tiếp cận thị trường

Theo Đại diện Tổ chức Nông lương Liên Hiệp quốc (FAO), tính thiết yếu trong minh bạch sản phẩm sẽ là yếu tố để nông sản, thực phẩm được lựa chọn. Trên mỗi sản phẩm được bán ra có mã truy xuất được in trên bao bì, khi người tiêu dùng muốn biết đầy đủ thông tin về món hàng đã mua, truy ngược dòng từ thành phẩm cuối cùng về nơi sản xuất ban đầu, rà soát từng công đoạn trong chế biến và phân phối có thể dùng mã đó để kiểm tra.

Họ có thể gõ mã truy xuất trên trang web của sản phẩm để tìm thông tin; hoặc dùng điện thoại thông minh có cài đặt phần mềm truy xuất để quét lên mã truy xuất được in trên bao bì của sản phẩm.

Không những vậy, xu hướng hiện nay là các nhà nhập khẩu trên thế giới luôn muốn biết nơi sản xuất và những nơi sản phẩm đi qua. Điều này càng thể hiện rõ hơn với những thị trường nhập khẩu nông sản từ các quốc gia khác; trong đó có Việt Nam.

Chia sẻ về Hệ thống Truy xuất nguồn gốc của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ông Nguyễn Hoài Nam, đại diện Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp cho biết, hệ thống hiện đang kết nối, chia sẻ dữ liệu với 8 hệ thống truy xuất nguồn gốc của 8 tỉnh, thành phố và có hơn 3.964 doanh nghiệp với bộ mã truy xuất nguồn gốc của 16.987 sản phẩm nông sản thực phẩm.

Để Hệ thống Truy xuất nguồn gốc tại Bộ hoạt động thực sự hiệu quả, ông Nam cho rằng, rất cần sự kết nối, dẫn dắt của Cổng Truy xuất nguồn gốc Quốc gia. Do đó, truy xuất nguồn gốc nông sản nói riêng và các sản phẩm khác nói chung cần được xây dựng, phát triển theo hướng kết nối, liên thông và tập trung.

minh-bach-nguon-goc-nong-san-01-1710725103.jpg
Số hóa trong truy xuất nguồn gốc nông sản, thực phẩm góp phần xây dựng thương hiệu nông sản, thực phẩm Việt Nam. (Ảnh minh họa)

Từ phía các hợp tác xã, những nông hộ sản xuất trực tiếp, Chủ tịch Liên hiệp Hợp tác xã Kinh tế số Việt Nam Mai Quang Vinh khẳng định rất cần sự tăng cường quản lý, giám sát thông tin sản phẩm của cơ quan chức năng. Ông Mai Quang Vinh cho biết: “Hiện nay, mỗi sản phẩm rất dễ dàng để tạo cho mình một mã QR. Việc số hóa, quản lý thông tin nông sản, thực phẩm theo hình thức này sẽ rất lỏng lẻo. Doanh nghiệp thu mua rất dễ mua phải hàng hóa trà trộn, kém chất lượng.”

Trên cơ sở đó, ông Vinh mong muốn, thời gian tới sẽ được phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển một cổng thông tin về quản lý, giám sát thông tin sản phẩm. Qua đó, có thể đưa thông tin của hàng vạn hợp tác xã, ngành hàng, giá bán, giá mua nông sản… để tất cả các chủ thể có nhu cầu dễ dàng tiếp cận, tiến tới tất cả các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ sẽ được minh bạch thông tin.

Cùng chung quan điểm cần xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung để định danh các tác nhân như: Sản xuất, chế biến, vận chuyển, phân phối…, ông Nguyễn Thế Tiệp - Phó Viện trưởng Viện Kỹ thuật Chống hàng giả cho rằng, hiện các đơn vị cung cấp dịch vụ đa phần kín, làm sao kết nối, chia sẻ được dữ liệu giữa hàng trăm, hàng nghìn đơn vị cung cấp giải pháp thành hệ sinh thái.

Có thể thấy, trong giai đoạn số hóa trong truy xuất nguồn gốc nông sản, thực phẩm đang mang lại những lợi ích thiết thực cho phát triển nông nghiệp, dẫn đường cho xây dựng thương hiệu nông sản, thực phẩm Việt Nam, rất cần sự tham gia tích cực của quản lý nhà nước tới doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân để hiện thực hóa mục tiêu nền nông nghiệp minh bạch - trách nhiệm - bền vững”./.

Bình Châu