Chè cổ Shan Tuyết trên đỉnh Suối Giàng Yên Bái

Suối Giàng là một xã vùng cao thuộc huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Nằm trên độ cao gần 1.400 m, được ví như Sa Pa, Tam Đảo, Đà Lạt bởi khí hậu trong lành, mát mẻ quanh năm. Tuy nhiên, du khách đến với Suối Giàng không phải để nghỉ dưỡng mà chủ yếu để được thưởng thức thứ chè đặc sản mang tên Shan Tuyết từ những cây chè cổ thụ hàng trăm năm tuổi.

Thưởng thức chè Shan Tuyết trên đỉnh Suối Giàng Yên Bái Suối Giàng là một xã vùng cao thuộc huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Nằm trên độ cao gần 1.400 m, được ví như Sa Pa, Tam Đảo, Đà Lạt bởi khí hậu trong lành, mát mẻ quanh năm. Tuy nhiên, du khách đến với Suối Giàng không phải để nghỉ dưỡng mà chủ yếu để được thưởng thức thứ chè đặc sản mang tên Shan Tuyết từ những cây chè cổ thụ hàng trăm năm tuổi.

Ai đã từng lên thăm xã Suối Giàng, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, đều không khỏi ngỡ ngàng trước bạt ngàn những cây chè Shan Tuyết cổ thụ to lớn thân nhuộm màu trắng mốc, uốn lượn nhiều cành buộc người hái phải trèo lên mới thu hoạch được. Chè cổ thụ Shan tuyết là tặng vật của dãy Hoàng Liên Sơn cho Suối Giàng.

z3241963750484-af0c487de5d31b593624a3c04fc53a3f-1646743248.jpg
Cây chè Tổ gần 400 năm tuổi ở Suối Giàng

Từ những năm 1960, nhiều nhà nghiên cứu về cây chè ở Việt Nam và thế giới đã tìm thấy ở đây trên 80.000 cây chè từ 200 tuổi trở lên, trong số đó có rất nhiều cây trên 300 tuổi. Còn loại cây chè vào khoảng 100 năm tuổi thì nhiều vô kể. Vùng chè Shan Tuyết ở Suối Giàng trải rộng trên diện tích khoảng 393ha, trong đó diện tích cây mọc tự nhiên là 293ha, chủ yếu ở các thôn Giàng Cao, Giàng B, Pang Cáng, Tập Lăng I, Tập Lăng II, Suối Lóp…

Nói về giá trị của chè Shan Tuyết, Chè cổ thụ nhiều đến nỗi viện sĩ K. M. Djemmukhatze thuộc viện sinh hóa A - Ba - Cu, Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, khi đến Suối Giàng nghiên cứu vào những năm 60 của thế kỷ 20 này phải thốt lên: “Tôi đã đi qua 120 nước có chè trên thế giới, nhưng chưa thấy ở đâu có cây chè lâu năm như ở Suối Giàng, phải chăng đây là cội nguồn của cây chè? Chè ở đây độc đáo, trong bát nước chè xanh có đủ 18 vị đầu đẳng của chè trên thế giới” (lời ghi trong sổ lưu niệm của xã Suối Giàng).

Thừa hưởng khí hậu núi cao quanh năm mát mẻ, nhiều ngày có mây mù nên chè ở đây búp to, phủ một lớp lông tơ mịn như nhung, trắng như tuyết. Chè Shan Tuyết là loại cây mọc tự nhiên trên vùng núi cao, được nuôi dưỡng bằng sinh khí của đất, trời nên búp và lá chè rất to, có màu xanh đậm, trên mặt lá phủ một lớp lông tơ mỏng trắng như tuyết. Vì vậy mà chè có tên Shan Tuyết (chè được ngậm tuyết trên núi cao).

z3241963745582-08e770b41631053288c577c2b56fa711-1646743248.jpg
Ấm trà thơm ngát được pha chế tỉ mỉ dưới bàn tay chàng trai cô gái dân tộc HMông

Mỗi năm chè Shan tuyết được thu hoạch 3 vụ, vụ cuối thường vào khoảng tháng 8 đến tháng 9 âm lịch. Như thời điểm này, từ sáng sớm, khi những nóc nhà còn mờ ảo trên độ cao gần 1.400 m, đã thấy tiếng các cô gái Mông í ới rủ nhau đi hái chè. Trong màn sương, những chiếc váy thổ cẩm sặc sỡ thấp thoáng trong tán chè xanh thẫm tạo nên khung cảnh thật huyền ảo.

Cái công phu của việc hái chè shan tuyết là lựa ngày sương, rồi phải đi sớm hái nhanh sao cho kịp trước khi mặt trời thức dậy, sương còn đọng trắng trên búp non. Nếu để ánh nắng rọi lên lá sẽ kích thích quá trình quang hợp làm tăng vị chát, mất mùi hương, giảm chất lượng chè.

Đôi bàn tay thoăn thoắt, thuần thục ngắt từng búp nõn nhưng vẫn nhẹ nhàng để không làm mất lớp tuyết trắng phủ bên ngoài, vì càng nhiều tuyết trắng thì tính dược liệu của chè càng mạnh. Chè Shan Tuyết Suối Giàng xưa nay được xếp hàng “đầu bảng” các loại chè. Mọi người vẫn bảo đây là loại chè “năm cực”. “Cực khổ” - khi trồng và thu hái; “cực sạch” - vì những điều kiện khí hậu, môi trường và cả công chăm giữ của người trồng; “cực hiếm” - vì sản lượng ít (đến nay, dù đã tăng thêm diện tích trồng nhưng mỗi năm nhiều lắm cũng chỉ mới thu hái được chừng 200 tấn chè búp); “cực ngon” - với đủ các phẩm chất đỉnh cao mà mỗi chén trà phải có như hương thơm, vị đậm, nước xanh. Và vì cả bốn “cực” trên nên đương nhiên, có thêm “cực đắt”.

z3241963742850-8ce40d8b561955599b6776caf203ffb6-1646743248.jpg
Du khách thưởng thức những chén trà đượm đà hương vị núi rừng

Búp chè shan mầu trắng xám, bọc một lớp phấn trắng mờ như tuyết được hái, được sao bằng kinh nghiệm và bàn tay khéo léo của người Mông. Để hái được những búp chè non nhiều khi phải trèo lên cành cao của cây chè cổ thụ. Với độ cao 1.400m so với mặt nước biển, mùa đông thường không có mặt trời còn buổi sáng mùa hè, búp chè cũng ngậm sương mù, hái buốt tay. Đầu tiên chè tươi hái về, chọn những búp chè không bị sâu, không quá già, sau đó đưa vào chảo để sao.

Sao chè nhất thiết phải dùng củi phơi khô cháy đượm thì nước chè mới xanh. Khi sao chè, phải luôn hơ tay trần vào chảo nóng để ước lượng nhiệt độ. Trong quá trình sao lửa phải liu riu thật đều, rồi đưa chè ra vò bằng tay, phải khéo léo sao cho chè không bị nát, vừa không mất hương chè, vừa không làm rơi hết những tuyết trắng còn bám ở búp chè. Đó là cả một quá trình cẩn thận, kỹ lưỡng mà người sao chè phải để hết tâm huyết vào.

Đây là kinh nghiệm và bí quyết sao chè của người Mông trước đây truyền lại. Sau khi sao, những búp chè săn lại bằng hạt đỗ xanh, tuyết phủ trắng, mang hương thơm độc đáo thanh cao của núi ngàn. Được tận mắt nhìn cô gái Mông nâng chén trà với đôi má ửng hồng vì lửa nóng từ lò sao, mới thấy giá trị của chè Suối Giàng không chỉ dừng lại ở hương vị đặc biệt của một đồ uống, nó vượt lên là sự thưởng thức, thưởng thức cả cách làm nên hương vị ấy.

Theo lý giải của ông Giàng A Đằng - Chủ cơ sở chế biến chè có thương hiệu nổi tiếng Đằng Trà thì chè chịu đựng giá buốt suốt mùa đông trên đỉnh núi, ngậm từng hạt sương sớm khi giao mùa, ủ từng khối mù mây mỗi sớm. Những cây chè lúc này hội tụ tất cả tinh hoa đất trời thiên nhiên ban tặng nên cho vị đượm hơn cả.

Nhìn ông Đằng pha trà cũng đã thấy bao điều thú vị. Nước được đun trong một chiếc ấm đất, sôi vừa độ thì tắt lửa. Một bộ ấm chén bằng sứ đã được rửa sạch để ráo. Những búp chè khô, cong hình móc câu còn phủ một lớp lông tơ trắng như tuyết được bỏ vào ấm. Ông bảo: Lúc cho chè khô vào ấm, lắc lắc có thể nghe thấy tiếng búp chè va vào thành ấm mà biết chè đạt độ khô ở mức nào, có chuẩn hay không.

\

z3241963755796-cf92299bf3fe61b801c66d6d1833c8d0-1646743248.jpg
Rừng chè Shan Tuyết có tuổi đời từ 100 – 400 năm tuổi

Sau đó nước sôi được rót vào từ từ cho đến khi bọt trào khắp ngoài ấm thì mới đậy nắp. Chừng 5 phút sau, trà ngấu sẽ được rót làm hai lượt ra đều các chén. Nhìn nước chè vàng xanh óng, hương thơm thoang thoảng, vị đậm, nhấp một ngụm nhỏ đã thấy vị chát lan tỏa, rồi dần dần biến thành vị ngọt hậu như muốn níu người phương xa ở lại. Suối Giàng có tới 98% là người Mông, bà con sống với nghề hái chè và sản xuất chè từ nhiều đời nay.

Giá mỗi kg chè Shan Tuyết lên tới 3 triệu đồng/kg, nhưng tới đây người ta không thấy cái vội vã, hay sự góp mặt của những công nghệ cao khi làm chè. Trái lại, người Mông nơi đây vẫn giữ lối “sống chậm”, hàng trăm năm qua, họ vẫn chỉ sử dụng phương pháp thủ công để chế biến chè. Với người sành trà, đây mới chính là sức quyến rũ của chè Shan tuyết.

Du khách đến đây không dừng lại ở việc đến thưởng thức đồ uống, mà rộng ra là thưởng thức không khí, văn hóa lối sống, một môi trường sinh thái không bị pha tạp và tinh khiết. Đến Suối Giàng huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, du khách sẽ được hòa mình vào bốn mùa bồng bềnh trong mây, được thưởng thức vị ngọt của chè Shan Tuyết cổ thụ, của mật ong tinh khiết và tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng đàn môi cùng lời hát trao tình của các chàng trai, cô gái Mông réo rắt gọi mời.

Đức Anh