Cải thiện hạ tầng số để phát triển nông nghiệp xanh, bền vững

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) xác định chuyển đổi số là phương thức quan trọng giúp người nông dân, doanh nghiệp sản xuất nông sản chất lượng đạt lợi nhuận cao.
chuyen-doi-so-1692673714.png
Chuyển đổi số là phương thức quan trọng giúp người nông dân, doanh nghiệp sản xuất nông sản chất lượng - Ảnh minh hoạ.

Hiện nay, người dân sử dụng internet hằng ngày khá cao. Đây là một trong những thuận lợi giúp người nông dân ứng dụng số hóa vào trong sản xuất. Việc ứng dụng chuyển đổi số trong nông nghiệp không chỉ giúp sản phẩm nông, lâm, thủy sản của nông dân đáp ứng được đòi hỏi của thị trường về tính minh bạch trong quá trình sản xuất, truy xuất nguồn gốc sản phẩm mà chuyển đổi số còn giúp nông dân gia tăng giá trị, hiệu quả của sản phẩm nông, lâm, thủy sản.

Theo ghi nhận, hiện quá trình chuyển đổi số nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức như cơ sở hạ tầng số ở nông thôn còn thiếu; quy mô ứng dụng chuyển đổi số còn hạn chế, chưa đồng bộ giữa các vùng, miền, địa phương; nhận thức và kỹ năng sử dụng thiết bị thông minh của nông dân còn hạn chế; diện tích canh tác nhỏ; các doanh nghiệp nông nghiệp đầu tư vào chuyển đổi số chưa nhiều; chất lượng nguồn nhân lực có chuyên môn cao trong nông nghiệp số còn hạn chế.

Do đó, quá trình chuyển đổi số ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đòi hỏi sự vào cuộc không chỉ của các cơ quan quản lý Nhà nước tại cấp trung ương, địa phương, mà còn của các doanh nghiệp, người dân và đặc biệt là sự hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm của cộng đồng quốc tế. 

Thời gian qua, một số dự án hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức quốc tế đã triển khai nhiều mô hình thí điểm về ứng dụng số hóa trong sản xuất, thu hoạch, phân phối một số loại nông sản chủ lực của Việt Nam như lúa, tôm, cà phê, cây ăn trái… và đã đạt được những thành công nhất định.

Đơn cử, tại Bình Thuận, tỷ lệ hộ dân trồng thanh long sử dụng đèn led thay thế Compact là: Trồng theo tiêu chuẩn GlobalGAP: 73%; VietGAP: 45%; hữu cơ: 50%; truyền thống: 35%. Nhờ việc chuyển sử dụng bóng điện chiếu sáng cho cây thanh long từ bóng Compact sang đèn Led có thể giảm tới 68% lượng phát thải từ sử dụng điện năng, giúp sản xuất thanh long xanh hơn, góp phần bảo vệ môi trường.

Tiếp đó, chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) cũng đã hợp tác với Bộ NN&PTNT trong việc đầu tư vào một số giải pháp sáng tạo nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi xanh và bền vững trong ngành nông nghiệp. Trong đó, hệ thống truy xuất nguồn gốc carbon được số hóa đã được thiết lập cho hai mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam là thanh long và tôm. Công cụ này rất cần thiết đối với chính quyền địa phương, doanh nghiệp, nhà sản xuất và người tiêu dùng để hoạt động trong một nền kinh tế xanh.

Với hệ thống truy xuất nguồn gốc carbon được số hóa, người tiêu dùng trong nước và quốc tế khi mua hoặc nhập khẩu thanh long từ vùng sản xuất trọng điểm Bình Thuận có thể quét mã QR để truy xuất nguồn gốc trái cây và mức độ "thực hành xanh” hoặc thân thiện với môi trường được áp dụng để sản xuất ra trái cây này một cách minh bạch nhất.

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trong nông nghiệp, đây là một công cụ quan trọng để các nhà sản xuất và doanh nghiệp địa phương tại Việt Nam theo dõi và quản lý mức độ phát thải khí nhà kính của chuỗi cung ứng và tránh những rào cản không cần thiết khi xuất khẩu sang các thị trường giá trị cao, thường là nơi đang tiến tới áp dụng cơ chế điều chỉnh carbon qua biên giới.

Bộ NN&PTNT đã thành lập Trung tâm Chuyển đổi số và thống kê nông nghiệp, chuyên trách về chuyển đổi số, công nghệ thông tin, an toàn thông tin và thống kê, tổ chức triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ về chuyển đổi số, chính phủ số, công nghệ thông tin, an toàn thông tin, viễn thám, hệ thống thông tin địa lý, thống kê, dự báo, thông tin và thư viện phục vụ chức năng quản lý nhà nước của Bộ. Đồng thời, hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, hợp tác xã... Góp phần tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững nền nông nghiệp.

Đến nay, Việt Nam cũng đã tham gia và đang đàm phán 19 hiệp định thương mại tự do (FTA). Theo đó, để phát triển bền vững và có thể tham gia vào thị trường thế giới đòi hỏi người dân và doanh nghiệp cần nâng cao năng lực, áp dụng công nghệ để đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật cao không chỉ đối với chất lượng sản phẩm, mà còn cả về mẫu mã và các tiêu chuẩn về môi trường.

Hoàng Hà (t/h)