Tổng chủ biên sách Tiếng Việt lớp 1 lên tiếng trước băn khoăn dư luận nghi “bỏ chữ P”

Trước thông tin nghi vấn sách Tiếng Việt lớp 1 thuộc Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống bỏ sót, không dạy âm P, PGS. TS Bùi Mạnh Hùng, Tổng chủ biên cuốn sách đã lên tiếng về sự việc.

Việc phân biệt chữ cái P và âm P

PGS. TS Bùi Mạnh Hùng khẳng định, tất cả các sách giáo khoa đều phải đạt được mục tiêu học sinh biết đọc, biết viết sau khi học xong, tuy nhiên các sách khác nhau có thể có những cách khác nhau.

Ông Hùng cho rằng cần phân biệt chữ cái P và âm P. Về chữ cái, bảng chữ cái trong sách giáo khoa Tiếng Việt 1 (SGK Tiếng Việt 1), bộ Kết nối tri thức với cuộc sống có đầy đủ 29 chữ cái theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (trang 12, tập một) theo đúng quy định, trong đó có chữ cái P. Đây là quy định “cứng”, không có bất kì bộ SGK nào dám thay đổi và không có lí do gì để thay đổi. Ở nhiều bài học trong bộ sách này, học sinh được học và luyện viết chữ P qua ngữ liệu là những từ như đèn pin, cặp da, cá mập, lốp xe, tia chớp, bếp, bìm bịp, búp sen,… (trang 78, 118, 120, 124,… tập một). “Vì vậy, ý kiến cho Tiếng Việt 1, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống không dạy chữ P là hoàn toàn không có cơ sở,” ông Hùng nói.

sgk-tieng-viet-1-1645756902.jpg
Bảng chữ cái của SGK Tiếng Việt 1, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống

Cách dạy âm P như thế nào?

Phân tích về âm P, ông Hùng cho biết, trong tiếng Việt, âm P xuất hiện chủ yếu là cuối âm tiết, trong một số trường hợp, xuất hiện đầu âm tiết. Trường hợp âm P ở cuối âm tiết, ông Hùng cho rằng qua các loạt bài dạy vần ở tập một như ap, ăp, âp (trang 118); op, ôp, ơp (trang 120); ep, êp, ip, up (trang 124)… và những từ như đã nêu ở trên (cặp da, cá mập, lốp xe, tia chớp, bếp, bìm bịp, búp sen,…) cho thấy sách Tiếng Việt 1, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống có dạy âm P và dạy nhiều.

Với trường hợp âm P là âm đầu các bộ sách có thể có những cách dạy khác nhau. Cách thứ nhất là dạy âm đầu P trong bài dạy âm PH. Trước khi học âm PH, các em được luyện đọc âm P, chứ không học âm P riêng và không có từ ứng dụng riêng cho âm đầu P.

Cách dạy thứ nhất: Dạy âm đầu P (âm pờ) trong bài dạy âm PH (âm phờ). Trước khi học âm PH, các em được luyện đọc âm P, chứ không học âm P riêng và không có từ ứng dụng riêng cho âm đầu P.

Cách thứ hai: Dạy âm P riêng và đưa những “từ ứng dụng” như pi-a-nô/piano, pa-nô/panô để học sinh tập đọc và phát triển vốn từ".

Theo ông Hùng, SGK Tiếng Việt 1 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (theo chương trình Tiếng Việt năm 2000) đã áp dụng cách thứ nhất và rất quen thuộc với đông đảo giáo viên dạy Tiếng Việt lớp 1 trên cả nước trong 20 năm qua. SGK Tiếng Việt 1, bộ Kết nối, kế thừa cách dạy này. Sau khi làm quen, tập đọc âm P ngay trước khi học âm PH, học sinh được luyện đọc âm đầu P trong một số bài học sau đó, chẳng hạn, khi học vần IN, các em luyện đọc và viết từ đèn pin (trang 78, tập một), luyện đọc từ Sa Pa trong đoạn văn viết về Tây Bắc (trang 105 tập một) và trong bài đọc Ruộng bậc thang ở Sa Pa (trang 154, tập hai).

ong-bui-manh-hung-1645756994.jpg
PGS. TS Bùi Mạnh Hùng, Tổng chủ biên SGK Tiếng Việt 1, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống lên tiếng phân tích về việc dạy âm, vần trước nghi vấn "bỏ chữ P"

Lý giải việc nhóm tác giả chọn cách thứ nhất (đồng thời cũng là lựa chọn kế thừa cách dạy của SGK Tiếng Việt 1 năm 2000 của Bộ Giáo dục và Đào tạo), ông Hùng cho biết: Âm P và PH đều được học trong phần Âm, ở khoảng tuần 5 hoặc tuần 6 của lớp 1. Nếu dạy âm P riêng thì cần phải có “từ ứng dụng” để hcoj sinh tập đọc và phát triển vốn từ.

Những từ này chỉ chứa các âm tiết mở (bộ phận vần chỉ có 1 nguyên âm), nghĩa là buộc phải dùng từ như pi-a-nô/piano, pa-nô/panô,….; không thể dùng các từ như Sa Pa, Nậm Pì,… vì 2 lí do: 1) Học sinh chưa được học âm S (trong Sa Pa) và vần ÂM (trong Nậm Pì); 2) Thông thường, tên riêng không được dùng ở phần dạy phát triển vốn từ. Mới chỉ được học 5 – 6 tuần mà học sinh phải đọc và hiểu nghĩa của những từ như pi-a-nô/piano, pa-nô/panô,…. là không phù hợp. Chắc hẳn nhiều người sẽ e ngại vì học sinh lớp 1, mới đến trường mấy tuần, mà phải đọc, viết và hiểu nghĩa của những từ không quen thuộc như vậy. “Như vậy, sách Tiếng Việt 1, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống có dạy chữ P (chữ pê), âm đầu và âm cuối P (pờ) (ghi bằng chữ P). Tất cả đều dạy theo cách quen thuộc với giáo viên dạy tiếng Việt lớp 1 trên cả nước trong nhiều năm qua" - ông Hùng khẳng định.

Ông Hùng cũng nói thêm rằng "Trong tiếng Việt, trong khi âm cuối P được mặc nhiên thừa nhận dựa trên hàng loạt cứ liệu thực tế như các từ đã được nêu trên (cặp da, cá mập, lốp xe, tia chớp, bếp, bìm bịp, búp sen,…) thì nhiều nhà Ngữ âm học hàng đầu, “ông tổ” của ngành Ngữ âm học Việt Nam, không coi tiếng Việt có âm đầu P (xem Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm học tiếng Việt, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, trang 157 – 158; Hoàng Tuệ và Hoàng Minh (Cao Xuân Hạo), Remarks on the Phonological Structure of Vietnamese, Vietnamese Studies: No 40, p. 76).

Bởi vậy, nếu có coi tiếng Việt có âm đầu P thì đó không phải là việc hiển nhiên và âm đầu P không phải có vị trí “bình đẳng” như các âm đầu khác trong tiếng Việt. Âm này xuất hiện trong các từ vay mượn như: pi-a-nô/piano, pê-đan/pêđan, pa-nô/panô, pê-nê-xi-lin,…, các âm tiết được viết liền hoặc có dấu nối. Ngoài ra, âm đầu P có thể xuất hiện ở một số tên riêng (Sa Pa, Nậm Pì,…).

Hơn nữa, trong miêu tả ngữ âm học, tất cả các hiện tượng ngữ âm thuộc từ vay mượn mà chưa Việt hóa (pi-a-nô/piano, pê-nê-xi-lin, pê-đan/pêđan, pa-nô/panô,…), tên riêng (Sa Pa, Nậm Pì,…), cùng với từ tượng thanh, từ cổ,… đều thuộc hiện tượng ngữ âm “ngoại biên”, không được lấy làm ngữ liệu để miêu tả hệ thống âm vị của một ngôn ngữ", vị Tổng chủ biên nói.

Đăng Trình (t/h)