Quảng cáo #128

Thu hút tài chính xanh cho phát triển nông nghiệp tại Việt Nam

Bài báo nghiên cứu "Thu hút tài chính xanh cho phát triển nông nghiệp tại Việt Nam" do Lê Ngọc Ánh, Hoàng Bảo Châu, Đỗ Thị Thanh Lương, Nguyễn Thị Thu Trang (Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội) thực hiện.
du-lich-nong-thon-1-1733729100.jpg
Ảnh minh họa.

Tóm tắt: Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với xu thế chung của thế giới, quan điểm phát triển bền vững nói chung, phát triển nông nghiệp xanh nói riêng, ngày càng nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, được cụ thể hóa trong các nghị quyết và chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Để phát triển nông nghiệp xanh cần có hệ thống các giải pháp tổng thể, từ xây dựng chính sách điều hành vĩ mô, đến các biện pháp về kinh tế, xã hội, phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ để tăng năng suất, tạo ra nhiều sản phẩm xanh đáp ứng thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế,... Trong đó, các chính sách tài chính luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng.

1. Khái niệm

1.1. Tài chính xanh (Green Finance)

Tài chính xanh là thuật ngữ ra đời gắn với sự phát triển của xu hướng xanh hóa nền kinh tế trên thế giới trong những thập kỷ gần đây. Chưa có khái niệm thống nhất về tài chính xanh, song cơ bản tài chính xanh được hiểu như sau:

Theo Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP, 2016), tài chính xanh liên quan đến việc đa dạng hoá các sản phẩm và dịch vụ tài chính cung cấp bởi các định chế tài chính hướng tới sự phát triển bền vững của quốc gia.

Theo Chowdhury và cộng sự (2013), tài chính xanh là những hỗ trợ về tài chính hướng đến tăng trưởng xanh thông qua việc cắt giảm khí phát thải nhà kính và ô nhiễm môi trường một cách có ý nghĩa.

Theo nhóm nghiên cứu đề tài cấp nhà nước (KX01.27/16-20): hệ thống tài chính xanh được hiểu là: “Hệ thống tài chính cho phép luân chuyển nguồn tài chính tới các hoạt động đầu tư thông qua các trung gian tài chính và thị trường tài chính, trong đó các hoạt động đầu tư phải đảm bảo các điều kiện xanh, bảo vệ môi trường và hướng tới phát triển bền vững. Khi đó, các bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính xanh sẽ mang đặc điểm xanh, bao gồm: trung gian tài chính xanh, thị trường tài chính xanh, công cụ huy động vốn xanh hay nguồn vốn xanh, và đầu tư xanh”.

Tài chính xanh là nguyên lý của tín dụng xanh, bao gồm các biện pháp quản lý trong đó yêu cầu các ngân hàng thương mại và các định chế tài chính khác thực hiện các nghiên cứu và phát triển để tạo ra các sản phẩm đối phó với tình trạng ô nhiễm môi trường, bảo vệ và khôi phục môi trường sinh thái. Tài chính xanh khuyến khích phát triển và sử dụng các nguồn năng lượng mới, sản xuất các sản phẩm xanh, sản xuất nông nghiệp sinh thái thông qua cho vay ưu đãi lãi suất đối với các doanh nghiệp; đồng thời giới hạn các dự án mới của các doanh nghiệp gây ô nhiễm cùng với việc áp dụng lãi suất cao.

1.2. Tài chính xanh trong phát triển nông nghiệp

Đây là một khái niệm thuộc lĩnh vực tài chính bền vững, tập trung vào việc cung cấp nguồn vốn và các sản phẩm tài chính để hỗ trợ các hoạt động nông nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường và giảm thiểu tác động tiêu cực đến hệ sinh thái và ứng phó với biến đổi khí hậu.

2. Những chính sách của nhà nước đã và đang áp dụng cho tài chính xanh trong nông nghiệp tại Việt Nam

Việt Nam đã bắt đầu quan tâm, triển khai các kế hoạch hành động nhằm khởi động và phát triển tài chính xanh. Dưới đây là những chính sách tài chính xanh mà Việt Nam đã áp dụng cho phát triển nông nghiệp:

Ngày 01/10/2021, Chính phủ ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn năm 2050 với mục tiêu tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội, hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa cacbon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu. Chiến lược này nối tiếp những thành công của Chiến lược giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn năm 2030. Chiến lược xác định sáu ngành quan trọng trong đó có ngành nông nghiệp bền vững.

Chính phủ Việt Nam đã ban hành và triển khai nhiều cơ chế, chính sách để thúc đẩy hoạt động phát triển xanh, bền vững, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp như Quyết định 429/QĐ-TTg ngày 24/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển công nghiệp sinh học ngành nông nghiệp đến năm 2030; Quyết định 130/QĐ-TTg ngày 27/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030; Quyết định 157/QĐ-TTg ngày 1/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2030,... cũng như các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người nông dân đầu tư vào các giải pháp công nghệ xanh. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã xây dựng và thực hiện nhiều chương trình và kế hoạch hành động khác nhau nhằm hỗ trợ cho quá trình chuyển đổi xanh.

Theo Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 02/2017. Với mục tiêu thúc đẩy phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, tạo sự hấp dẫn về cơ chế, chính sách, thu hút nguồn lực xã hội, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất, thúc đẩy tái cơ cấu ngành nông nghiệp, Chính phủ đã yêu cầu NHNN chỉ đạo các ngân hàng thương mại chủ lực là các ngân hàng thương mại nhà nước, dành ít nhất 100.000 tỷ đồng từ nguồn vốn huy động của các ngân hàng để thực hiện chương trình cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch với lãi suất phù hợp (thấp hơn lãi suất thị trường).

3. Thực trạng áp dụng tài chính xanh cho nông nghiệp tại Việt Nam

Cơ cấu tín dụng xanh. Nguồn: Ngân hàng Nhà nước 2024

Với tỷ lệ chiếm tới 45%, ta có thể thấy, nông nghiệp xanh được đặc biệt quan tâm trong việc áp dụng tài chính xanh.

3.1. Kết quả đạt được

Chính sách tín dụng hiệu quả sẽ giúp tăng cường đầu tư trong nông nghiệp

Chính sách tín dụng hướng tới đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao với nhiều ưu đãi cho nông nghiệp, nông thôn; hỗ trợ phát triển thủy sản; chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa; bảo vệ và phát triển rừng gắn với xóa đói giảm nghèo ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số; sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nông, lâm nghiệp… Đây chính là đòn bẩy quan trọng tạo ra những chuyển biến cho toàn ngành nông nghiệp nói chung và là tiền đề cho sự phát triển nông nghiệp bền vững trong thời gian tới.

Thực tế cho thấy, nhờ triển khai đồng bộ chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, các chương trình tín dụng đặc thù mà một số tỉnh đã có những chuyển biến tích cực trong việc phát triển nông nghiệp, cải thiện đời sống nông dân, hướng đến xây dựng nông thôn mới. (ThS. Trịnh Tường Khiêm)

Tại Đồng bằng sông Cửu Long, tính đến cuối năm 2023, tổng dư nợ cho vay lĩnh vực lúa gạo đạt khoảng 103.000 tỷ đồng, tăng khoảng 9% so với năm trước. Trên phạm vi cả nước, cũng tính đến thời điểm này, hệ thống các ngân hàng đã cho vay gần 200.000 tỉ đồng đối với sản xuất, chế biến và xuất khẩu lúa gạo.

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) là ngân hàng cung ứng nhiều vốn nhất cho lĩnh vực lúa gạo. Tín dụng cho lúa gạo của Agribank trong các năm 2021 - 2023 tăng đều đặn khoảng 2.000 tỷ đồng mỗi năm. Chỉ tính riêng 13 tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Agribank đã cho vay khoảng 58.000 tỷ đồng đối với các hộ dân, hợp tác xã và doanh nghiệp sản xuất, chế biến, xuất khẩu lúa gạo. Nhờ chính sách tín dụng mà nhiều nông dân trong khu vực này đã được hỗ trợ vay vốn từ NHCSXH để mua giống lúa mới, thiết bị tưới tiêu hiện đại. Từ đó, năng suất lúa đã tăng từ 5 – 6 tấn/héc-ta lên 7 – 8 tấn/héc-ta.

Giúp nông dân giảm rủi ro về tài chính

Chính sách tín dụng trong năm 2024 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, tín dụng, và lãi suất để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, và hỗ trợ phát triển nông nghiệp nông thôn. Các điểm chính gồm:

  • Lãi suất ưu đãi
  • Khuyến khích đầu tư
  • Chương trình tín dụng đặc thù
  • Bảo hiểm tín dụng

Chính sách tín dụng dành cho nông dân không chỉ đơn thuần là cung cấp vốn mà còn là một công cụ chiến lược nhằm giảm thiểu rủi ro tài chính trong sản xuất nông nghiệp. Trong bối cảnh nông dân thường xuyên phải đối mặt với nhiều bất ổn như thiên tai, dịch bệnh hay biến động giá cả, việc có được nguồn vốn ổn định và kịp thời trở thành yếu tố quyết định giúp duy trì sản xuất và cuộc sống.

Đa dạng và linh hoạt về các công cụ tài chính xanh Việt Nam

Trái phiếu xanh: Trái phiếu xanh là công cụ tài chính chính được sử dụng để huy động vốn cho các dự án thân thiện với môi trường tại Việt Nam. Các ngân hàng và tổ chức phát hành đã bắt đầu tham gia vào việc phát hành trái phiếu xanh, đặc biệt là trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và quản lý tài nguyên nước.

Giai đoạn 2016 - 2020, Việt Nam có tổng cộng 4 đợt phát hành trái phiếu xanh với tổng giá trị 284 triệu USD. Đến giai đoạn 2019 – 2023, Việt Nam đã phát hành khoảng 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh. Tính đến tháng 6/2024, con số này đạt khoảng 1,4 tỷ USD. Đối với thị trường thế giới, tổng dư nợ thị trường toàn cầu ước đạt 4,16 nghìn tỷ USD, tổng giá trị trái phiếu bền vững phát hành năm 2023 đạt 939 tỷ USD. Như vậy, đây là dư địa lớn để doanh nghiệp Việt tiếp cận với dòng vốn hàng tỷ USD theo hình thức trái phiếu xanh.

Tín dụng xanh: Các ngân hàng thương mại Việt Nam mở rộng cung cấp các khoản vay và tín dụng xanh. Một số ngân hàng lớn đã bắt đầu cung cấp các sản phẩm tín dụng với lãi suất ưu đãi cho các dự án liên quan đến năng lượng sạch, xử lý chất thải và nông nghiệp hữu cơ, như: BIDV, Vietcombank và Agribank. Tính đến ngày 31/3/2024, dư nợ tín dụng xanh tại Việt Nam đạt gần 637.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế.

Theo Ngân hàng Thế giới, để đạt mục tiêu đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050, Việt Nam cần 368 - 380 tỷ USD (tương đương 6,8% GDP mỗi năm) từ nay đến năm 2040. Tuy nhiên, việc tiếp cận tín dụng xanh không dễ dàng. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, mặc dù tín dụng xanh tăng trưởng bình quân khoảng 22%/năm từ năm 2017 đến nay nhưng tính đến cuối năm 2023, dư nợ tín dụng xanh mới đạt 620.984 tỷ đồng, mới chỉ chiếm 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, còn cách khá xa mục tiêu 10% vào cuối năm 2025.

  1. 3.2. Hạn chế

        Mặc dù, tài chính xanh có tiềm năng lớn trong thúc đẩy phát triển bền vững và giải quyết các vấn đề môi trường, nhưng việc triển khai và phát triển lĩnh vực này tại Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn, thách thức.

  1. Thiếu khung pháp lý rõ ràng và đồng bộ

        Một trong những trở ngại lớn nhất đối với việc phát triển tài chính xanh tại Việt Nam là thiếu các quy định pháp lý rõ ràng và chuẩn hóa về tài chính xanh. Hiện nay, các quy định về việc định nghĩa, đánh giá, và phân loại dự án xanh còn thiếu sự thống nhất, gây khó khăn cho việc quản lý và triển khai các sản phẩm tài chính xanh.

         Mặc dù, có một số văn bản hướng dẫn, nhưng Việt Nam chưa có một tiêu chuẩn quốc gia chính thức về các công cụ tài chính xanh, như tiêu chuẩn cho trái phiếu xanh, tín dụng xanh, hay các sản phẩm đầu tư xanh khác. Điều này khiến các tổ chức tài chính và doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc xác định các dự án đủ điều kiện để nhận tài trợ từ các công cụ tài chính xanh.

  1. Vốn đầu tư cho tín dụng xanh nông nghiệp còn hạn chế

         Nguồn vốn dành cho tài chính xanh tại Việt Nam còn hạn chế, trong khi nhu cầu tài trợ cho các dự án bền vững và thân thiện với môi trường ngày càng tăng cao. Điều này dẫn đến việc các dự án gặp khó khăn trong việc huy động vốn và phát triển lâu dài. Các doanh nghiệp và tổ chức thực hiện các dự án xanh thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn dài hạn.

         Vốn đầu tư của Ngân sách nhà nước cho nông nghiệp còn hạn chế, phát huy hiệu quả chưa cao: Trong thời gian qua, nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, mới đáp ứng 55 - 60% nhu cầu, hiệu quả đầu tư lại không cao. Năm 2023, cả nước có 16.100 doanh nghiệp nông nghiệp, đa số có quy mô nhỏ và vừa, điều này hạn chế khả năng tiếp cận vốn vay đối với các doanh nghiệp bởi khả năng thế chấp tài sản hoặc vay tín chấp.

Nguyên nhân

        Quy mô doanh nghiệp nhỏ và vừa: Với 16.100 doanh nghiệp nông nghiệp trong cả nước vào năm 2023, đa số có quy mô nhỏ và vừa. Điều này làm giảm khả năng tiếp cận vốn vay, vì các doanh nghiệp nhỏ thường gặp khó khăn trong việc cung cấp tài sản thế chấp hoặc đảm bảo tín chấp.

        Nguồn lực hạn chế: Mặc dù nhu cầu đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn là rất lớn, nhưng nguồn lực hiện tại chỉ đáp ứng được 55 - 60% nhu cầu. Sự thiếu hụt này có thể làm giảm khả năng phát triển và mở rộng sản xuất.

        Hiệu quả đầu tư không cao: Các dự án đầu tư vào nông nghiệp có thể chưa đạt được hiệu quả mong muốn, có thể do các vấn đề về quản lý, công nghệ, hoặc điều kiện tự nhiên không thuận lợi. Điều này dẫn đến việc các nguồn lực đầu tư không được sử dụng một cách tối ưu.
        Rủi ro cao trong lĩnh vực nông nghiệp: Lĩnh vực nông nghiệp thường gặp nhiều rủi ro như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, làm tăng nguy cơ mất mát và giảm hiệu quả đầu tư. Điều này cũng làm giảm sự hấp dẫn của các nhà đầu tư vào lĩnh vực này.

         Bên cạnh đó, do thiếu vốn đầu tư nên cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp vẫn còn lạc hậu. Để đạt được nền nông nghiệp hiện đại, bền vững thì nông nghiệp phải được phát triển dựa trên cơ sở thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, hóa học hóa, tự động hóa và sinh học hóa. Sản xuất nông nghiệp của nước ta về cơ bản vẫn dựa trên lao động thủ công là chính, tự động hóa về cơ bản chưa được ứng dụng. Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp lạc hậu dẫn đến năng suất lao động của khu vực này thấp.

  1. Tiếp cận tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và hộ dân còn khó khăn

        Các đối tượng muốn tiếp cận vốn ưu đãi đối với nông nghiệp công nghệ cao phải thỏa mãn các tiêu chí của Quyết định số 738/QĐ-BNN-KHCN ngày 14/3/2017, trong khi Quyết định này chỉ đưa ra tiêu chí đối với các đối tượng trực tiếp sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Trong khi đó, để phát triển được nông nghiệp công nghệ cao thì thị trường tiêu thụ sản phẩm (sản xuất và cung ứng theo chuỗi) cũng có ý nghĩa quyết định. Do đó, việc chỉ đưa ra các ưu đãi về vốn vay đối với người trực tiếp sản xuất mà bỏ qua các khâu còn lại trong trong chuỗi cung ứng cũng gây khó khăn cho quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Các mô hình liên kết số lượng còn ít, chưa hiệu quả nên cũng khó tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi.

         Các dự án xanh đôi khi bị đánh giá là phức tạp và khó thực hiện do thiếu kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm trong việc áp dụng công nghệ và quy trình xanh. Ngoài ra, các tổ chức tài chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mại, gặp khó khăn trong việc đánh giá rủi ro môi trường và xã hội liên quan đến các dự án xanh. Việc thiếu các công cụ và kỹ thuật đánh giá rủi ro xanh khiến nhiều ngân hàng e ngại khi cung cấp tín dụng cho các dự án này.

4. Đề xuất giải pháp thu hút tài chính xanh cho phát triển nông nghiệp tại Việt Nam

        Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý và chính sách hỗ trợ tài chính xanh

        Ban hành tiêu chí rõ ràng cho tài chính xanh trong nông nghiệp: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cần phối hợp với Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính để xây dựng các tiêu chí cụ thể nhằm xác định các dự án nông nghiệp xanh. Ví dụ: Dự án phải giảm phát thải ít nhất 20%, sử dụng tối thiểu 30% nguyên liệu tái tạo hoặc giảm sử dụng hóa chất độc hại.

        Ban hành Bộ tiêu chí xanh quốc gia để tạo cơ sở quan trọng cho các ngân hàng và tổ chức tài chính thống nhất trong việc đánh giá cấp vốn.

       Thực hiện chính sách ưu đãi tài chính xanh: Chính Phủ nên tạo điều kiện về thuế suất, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc thuế nhập khẩu đối với các dự án sử dụng công nghệ nông nghiệp sạch, ứng dụng công nghệ cao.

       Tích hợp tài chính xanh vào chiến lược phát triển nông nghiệp: Cần đưa tài chính xanh trở thành một phần quan trọng trong các chiến lược quốc gia, như Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới hoặc Chiến lược tăng trưởng xanh 2021-2030.

        Quy định cụ thể về giám sát và báo cáo định kỳ cho các dự án tài chính xanh để nâng cao niềm tin nhà đầu tư và đảm bảo cam kết môi trường.

        Thứ hai, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong các thủ tục tiếp cận vay vốn tài chính xanh trong nông nghiệp

        Rút ngắn quy trình xét duyệt hồ sơ (Chuyển một số bước xét duyệt thủ công sang quy trình trực tuyến).

       Giảm yêu cầu tài sản thế chấp: Nhiều nông dân và doanh nghiệp nhỏ gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu tài sản thế chấp. Nhà nước cần xây dựng cơ chế bảo lãnh tín dụng hoặc Quỹ Phát triển nông nghiệp để hỗ trợ vốn vay.

        Thứ ba, nâng cao nhận thức và đào tạo nguồn nhân lực

        Sử dụng truyền hình, mạng xã hội, và các hội chợ nông nghiệp để quảng bá các lợi ích của nông nghiệp xanh và cách tiếp cận tài chính xanh.

        Kết hợp tổ chức các khóa học ngắn hạn hoặc trực tuyến cho cán bộ địa phương và nông dân.

        Hỗ trợ trực tiếp bằng cách cử chuyên gia đến các vùng nông thôn để tư vấn và hướng dẫn nông dân về cách tiếp cận nguồn tài chính xanh, chẳng hạn như vay vốn ưu đãi cho các dự án giảm khí thải.

        Thứ tư, khuyến khích sự tham gia của khối tư nhân và các tổ chức phi chính phủ

         Triển khai thực hiện các chính sách ưu đãi như miễn hoặc giảm thuế cho doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào dự án nông nghiệp xanh, như các trang trại sử dụng năng lượng tái tạo hoặc mô hình canh tác tuần hoàn.

        Áp dụng cơ chế đối tác công tư (PPP): Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác với nhà nước trong các dự án xanh, như xây dựng hệ thống tưới tiêu tiết kiệm nước. Ví dụ như dự án “Better Rice Initiative Asia” hợp tác giữa chính phủ Việt Nam và doanh nghiệp tư nhân nhằm nâng cao sản lượng lúa gạo và giảm phát thải khí nhà kính.

        Tạo các cuộc thi ý tưởng nông nghiệp xanh hoặc các quỹ hỗ trợ khởi nghiệp trong lĩnh vực này, thu hút hàng trăm ý tưởng từ các nhóm sinh viên và doanh nghiệp trẻ./.

Lê Thị Ngọc Ánh, Hoàng Bảo Châu, Đỗ Thị Thanh Lương, Nguyễn Thị Thu Trang (Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội)