Sắn mất giá, nông dân lỗ nặng
Tháng 3/2025, trên tuyến đường 15C qua Mường Lát (cũ), những đống sắn khô quắt nằm im lìm ven đường, chờ thương lái đến mua. Bao tải, gùi tre chất đầy củ to, phơi mình qua nắng sớm, sương khuya. Người dân gùi sắn từ nương xuống, mong có người hỏi mua, nhưng càng chờ càng mỏi. Dòng xe cộ vẫn tấp nập qua lại, không một chiếc nào dừng lại, bỏ mặc phía sau những ánh mắt thẫn thờ và những gánh sắn vô vọng.
Ông Thao Chống Lâu, bản Lốc Há, xã Pù Nhi, bần thần nói: “Năm ngoái, một ký sắn bán được 2.800 đồng. Năm nay thương lái trả 1.200, có nơi chỉ còn 900. Một tạ sắn bán không đủ tiền thuê người nhổ. Nhiều hộ đành để mặc trên nương, có thối đi cũng chịu.”
Theo thống kê, diện tích sắn toàn tỉnh Thanh Hóa niên vụ 2025 – 2026 đạt hơn 15.000 héc-ta, trong đó riêng huyện Mường Lát có khoảng 3.000. Nhưng sản lượng bội thu không mang lại niềm vui. Giá bán xuống mức thấp nhất trong vòng một thập kỷ, khiến người trồng sắn thua lỗ nặng. Với bà con miền núi, sắn không chỉ là cây lương thực mà còn là khoản dự phòng, là “ngân hàng” để rút ra khi cần chi tiêu. Giờ đây, “ngân hàng” ấy bỗng mất giá trị, biến thành gánh nặng.
Ở nhiều xã, bà con gùi từng gùi sắn từ sườn núi xuống đường lớn, nặng 40–50 ký, bán chưa được 60 nghìn đồng. Có khi gùi xuống rồi tấp đống rồi trở về, vì không ai mua. “Lấy công làm lãi” giờ cũng không còn đúng, bởi lãi chẳng đủ bù công.
Nguyên nhân khiến giá sắn rớt thảm là do diện tích trồng mở rộng tự phát, vượt quá nhu cầu; trong khi đó, xuất khẩu sắn sang Trung Quốc giảm, các nhà máy tinh bột trong nước cũng giảm công suất. Chỉ khoảng 1.700 héc-ta sắn ở Thanh Hóa có hợp đồng bao tiêu, còn lại người dân tự trồng, tự bán. Thương lái cũng ngại thu mua, bởi chi phí vận chuyển từ vùng núi về nhà máy quá cao.
Ông Hà Văn Thương, một thương lái ở Hồi Xuân, thẳng thắn: “Giá thấp mà đường xa, chi phí vận chuyển nhiều, ôm hàng là lỗ ngay. Chúng tôi cũng chẳng dám thu nhiều, vì giờ tinh bột cũng không xuất được”.
Trong cái vòng luẩn quẩn ấy, người nông dân là một trong những mắt xích yếu nhất phải gánh chịu rủi ro nhiều nhất. Bao giọt mồ hôi trên nương rẫy, cuối cùng chỉ đổi lại những đống sắn trắng nằm phơi mình bên đường.
Khảm lá sắn – cú đánh kép lên người nông dân
Nếu giá rớt đã khiến bà con lao đao, thì dịch bệnh lại như cú đánh bồi. Theo thống kê từ Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Thanh Hóa, Niên vụ này, gần 940 héc-ta sắn trên địa bàn bị nhiễm virus khảm lá, trong đó 76 héc-ta nhiễm nặng. Các giống KM94 và KM140 vốn phổ biến nhất bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Khảm lá khiến lá cây loang lổ, vàng xanh lẫn lộn, cong queo, củ nhỏ, hàm lượng tinh bột giảm rõ rệt. Người trồng gọi đó là “cây ốm không thuốc chữa”. Bà Lương Thị P. ở xã Tam Trung rầu rĩ: “Mấy sào sắn nhà tôi giờ bệnh hết. Nhổ chẳng được củ, mà để cũng chẳng ai mua. Xem như mất trắng cả vụ.”
Theo các chuyên gia, khảm lá có thể làm năng suất sụt giảm tới 80%. Nguy hiểm hơn, bệnh này lây lan nhanh qua hom giống, đe dọa cả những mùa sau. Thế nhưng, với nông dân đang chật vật vì giá thấp, việc bỏ thêm tiền đầu tư phòng trừ là điều ngoài tầm với.
Hệ quả là nhiều hộ buông xuôi, mặc cho bệnh lan rộng. Khi cây bệnh không còn cho thu hoạch, mảnh nương vốn là chỗ dựa duy nhất của gia đình cũng trở thành gánh nặng. Với người miền núi, vốn liếng chỉ gói gọn trong đất nương và cây giống. Khi cây giống hỏng, cả vốn liếng cũng mất theo.
Các cơ quan chuyên môn đã khuyến cáo phải thay thế bằng giống kháng bệnh, kiểm soát diện tích tự phát, tăng cường quản lý giống lưu thông. Tuy nhiên, để thực hiện đồng bộ, cần cả thời gian và nguồn lực lớn. Trong khi ấy, dịch bệnh vẫn lây lan từng ngày, đe dọa sinh kế của hàng nghìn hộ dân.
Cây sắn từng được xem là “cây thoát nghèo” của miền núi Thanh Hóa. Nhưng sự thật là bà con vẫn đang mắc kẹt trong vòng xoáy của thị trường và dịch bệnh. Mất giá thì lỗ, bị bệnh thì mất trắng, đầu ra thiếu bền vững khiến người trồng chẳng còn mấy niềm tin.
Trước thực trạng trên, lãnh đạo tỉnh và các ngành đã nhiều lần họp với nông dân, thương lái để tìm hướng tháo gỡ. Các chuyên gia đề xuất nhiều giải pháp như quy hoạch lại vùng nguyên liệu, khuyến khích chế biến sắn khô làm thức ăn chăn nuôi, mở rộng hợp đồng bao tiêu, đưa giống kháng bệnh vào sản xuất, tăng cường liên kết “bốn nhà”. Thế nhưng, từ chính sách đến ruộng nương vẫn còn xa. Trong lúc chờ đợi, bệnh vẫn tràn lan, sắn vẫn tấp đống.
Phận đời cây sắn, xét đến cùng, chính là phận đời của người nông dân miền núi lam lũ, bấp bênh, phụ thuộc vào thị trường và dịch bệnh. Nhìn những củ sắn nằm phơi sương gió, người ta không chỉ thấy một loại nông sản mất giá, mà còn thấy mồ hôi, niềm tin và kế sinh nhai của hàng nghìn hộ dân chông chênh trên trên những mảnh đất cằn./.