Cây sắn nơi vùng cao xứ Thanh chưa thoát vòng luẩn quẩn 'được mùa – mất giá'

Từng được ví như "cây vàng" giúp người dân vùng cao Thanh Hóa thoát nghèo, cây sắn giờ đây lại trở thành bài toán khó chưa có lời giải. Dịch bệnh hoành hành, giá cả bấp bênh, và vòng luẩn quẩn “được mùa – mất giá” đang khiến người nông dân lao đao, chật vật tìm cách duy trì sinh kế.
san-1-1742047551.jpg
Từng là "cây vàng" giúp người dân vùng cao Thanh Hóa thoát nghèo, cây sắn giờ đây lại trở thành bài toán khó chưa có lời giải (Ảnh Đặng Trung).

Thời hoàng kim của cây sắn

Những năm 90 của thế kỷ trước, cây sắn đã viết nên kỳ tích trên các bản vùng cao của tỉnh Thanh Hóa, những bước ngoặt thoát khỏi cảnh lam lũ cùng cực. Trong bối cảnh khó khăn chồng chất, cây sắn đã trở thành người bạn đồng hành trung thành, là nguồn sức mạnh vô tận, giúp bà con vượt qua cơn đói nghèo, đồng thời mở ra cánh cửa hy vọng về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Những củ sắn không chỉ nuôi sống con người, mà còn nuôi dưỡng ước mơ của họ.

Ông Vi Văn Thuyết, một người dân xã Thanh Tân, huyện Như Thanh, vẫn còn nhớ như in những ngày tháng ấy, khi cuộc sống của người dân nơi đây chủ yếu dựa vào nương rẫy, vào việc phát rừng làm rẫy, một công việc vất vả và bấp bênh. "Trước khi có cây sắn, chúng tôi chỉ biết đến nương rẫy, cuộc sống khó khăn lắm.. Kinh tế chủ yếu dựa vào nương, rẫy. Những vụ mùa thất bát, và nỗi lo cơm áo thường trực đã trở thành phần ký ức không thể nào quên của thế hệ chúng tôi.

Thế rồi, cây sắn xuất hiện, đã mang đến cho chúng tôi bữa cơm no, manh áo ấm, và cơ hội cho con em được cắp sách đến trường. Những đứa trẻ ngày ấy, lớn lên từ những củ sắn, đã có cơ hội lập nghiệp, xây dựng cuộc sống ổn định và góp phần vào sự phát triển của quê hương".

Sự xuất hiện của cây sắn đã mở ra một hướng đi mới, giống như một cuộc cách mạng trong phương thức canh tác của người dân nơi đây. Họ dần chuyển từ việc phát rừng làm rẫy sang trồng sắn, một loại cây dễ trồng, dễ chăm sóc và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Từ đó, những nương sắn xanh mướt mọc lên khắp nơi, thắp lên niềm tin và hy vọng của bà con. Nhờ có sắn, cuộc sống của mọi người cũng thay đổi. Các nhà máy chế biến tinh bột sắn mọc lên, tạo ra công ăn việc làm, giúp vùng quê nghèo khó dần ổn định và phát triển.

san-2-1742047804.jpg
Tại các tuyến đường của huyện Mường Lát, sắn nằm phơi la liệt, chờ xe đến bốc.

Tuy nhiên, những biến động của thị trường đã giáng một đòn mạnh mẽ vào ngành trồng sắn, đẩy người nông dân vào tình thế khó khăn, khiến họ phải đối mặt với những thách thức mới. Từ năm 2017, bệnh khảm lá sắn xuất hiện và nhanh chóng lan rộng, tàn phá hàng nghìn hecta. Loại virus này khiến cây còi cọc, năng suất giảm mạnh, tinh bột kém chất lượng. Nhiều hộ gia đình mất trắng mùa vụ, trong khi giá thu mua lại xuống thấp.

Ông Hà Ngọc Sơn, chủ cơ sở thu mua sắn ở xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, không giấu nổi nỗi xót xa: “Ngày trước, mỗi hecta sắn là một giấc mơ vàng, mang về cả trăm triệu đồng. Nhưng giờ đây, khi bệnh khảm lá tàn phá, năng suất tụt dốc không phanh, giá sắn cũng lao đao, chỉ còn vỏn vẹn mười, hai mươi triệu đồng. Đến tiền vốn tái đầu tư cũng chẳng đủ”.

Không chỉ người trồng sắn và cơ sở thu mua của ông Sơn chịu thiệt hại nặng nề, mà cả chuỗi giá trị sắn đều rung chuyển. Các nhà máy chế biến tinh bột, vốn là điểm tựa cho sự phát triển của ngành sắn, cũng đang oằn mình chống chọi với tình trạng lúc thừa, lúc thiếu nguyên liệu. Khi dịch bệnh khảm lá bùng phát, nguồn cung sắn giảm mạnh, nhà máy thiếu nguyên liệu để hoạt động. Ngược lại, khi nguồn cung tăng trở lại, thị trường tiêu thụ tinh bột lại gặp khó khăn, dẫn đến tình trạng thừa cung, ứ đọng sản phẩm, không thể xuất khẩu.

Vòng luẩn quẩn “được mùa – mất giá”

Chưa kịp thở phào những tháng ngày vật lộn với cơn bão dịch bệnh khảm lá sắn, người nông dân vùng cao xứ Thanh lại ngậm ngùi đối diện với vòng xoáy nghiệt ngã của bài toán muôn thuở "được mùa - mất giá". Nhìn những đồi sắn phát triển xanh tốt, tưởng chừng như mang đến niềm vui no ấm, nay lại trở thành nỗi lo canh cánh bên lòng.

san-3-1742047866.jpg
Do giá sắn giảm sâu nên nhiều hộ dân vẫn đang chần chừ chưa muốn thu hoạch.

Sắn bội thu, năng suất vượt trội, nhưng giá cả lại rớt thảm hại, khiến bao công sức, mồ hôi nước mắt của người nông dân đổ xuống sông xuống biển. Họ đã dồn hết tâm huyết, chăm chút từng gốc sắn, mong chờ một vụ mùa bội thu để cải thiện cuộc sống, thế rồi hi vọng ấy bỗng chuyển sang thất vọng khi giá sắn không bằng một nửa so với năm trước. Những củ sắn trắng từng mang lại ấm no, nay lại trở thành gánh nặng, khi mà giá bán chẳng đủ bù đắp chi phí đầu tư, chứ đừng nói đến chuyện có lãi.

Ghi nhận tại huyện Mường Lát, nơi những nương sắn xanh mướt trải dài, nay lại chìm trong nỗi thất vọng. Giá sắn tụt dốc không phanh, chỉ còn 1.000-1.200 đồng/kg, khiến người nông dân không khỏi xót xa. Họ đành ngậm ngùi nhìn những củ sắn đến kỳ thu hoạch, nhưng không dám động tay, bởi giá thu về không bằng chi phí thuê người thu hoạch.

Ông Lầu A Vàng, một người con của bản Cá Giáng, xã Trung Lý (Mường Lát), vừa là người trồng sắn, vừa là người thu mua sắn tại các bản làng, chia sẻ: “Năm 2024, gia đình tôi thu được hơn 35 tấn sắn, một con số đáng mừng. Tuy nhiên giá sắn quá rẻ nên không biết sắn được mùa là nên vui hay buồn. Năm nay, chúng tôi chỉ còn biết lấy công làm lãi, chứ không dám mơ đến chuyện làm giàu từ cây sắn”.

san-4-1742047924.jpg
Những bao sắn nặng trĩu, gánh trên vai nỗi buồn của người dân (Ảnh Đặng Trung)

Không chỉ riêng ông Vàng và bà con Mường Lát, thực trạng này đang bao trùm nhiều vùng trồng sắn trên cả nước. Sự phụ thuộc quá lớn vào thị trường Trung Quốc, sự thiếu liên kết chặt chẽ giữa nông dân và doanh nghiệp, đã đẩy giá sắn vào vòng xoáy trồi sụt không phanh. “Được mùa mất giá” dường như đã trở thành điệp khúc quen thuộc, gieo rắc nỗi lo âu cho những người nông dân chân chất.

Ông Trần Văn Thắng, Trưởng Phòng Nông nghiệp huyện Mường Lát, cho biết: “Tại Mường Lát, sắn chủ yếu được trồng xen canh với đất rừng sản xuất tại các xã Trung Lý, Mường Lý, Pù Nhi và Tam Chung..., với hơn 3.000ha. Tuy nhiên, chỉ khoảng 1.600ha là có hợp đồng liên kết, bao tiêu sản phẩm đầu ra. Niên vụ sắn 2024-2025 được mùa nhưng mất giá. Nguồn thu từ sắn ước tính chỉ đạt khoảng 60 tỷ đồng, giảm một nửa so với niên vụ năm 2023-2024”.

Từ thực tế ở huyện Mường Lát có thể cho thấy người nông dân đang chìm trong vòng xoáy “được mùa mất giá”. Sự chênh lệch quá lớn giữa diện tích trồng sắn và diện tích có hợp đồng bao tiêu đã đẩy người nông dân vào thế bấp bênh, phó mặc cho sự biến động của thị trường. Nguồn thu giảm sút nghiêm trọng là minh chứng không thể chối cãi cho sự thất bại của một mô hình sản xuất thiếu tính bền vững.

Trong bối cảnh đó, những nỗ lực của các trung tâm nông nghiệp trong việc chuyển giao kỹ thuật canh tác tiên tiến, phòng trừ sâu bệnh, cải tạo đất đai, dù đáng ghi nhận, thế nhưng vẫn chỉ là những giải pháp tình thế. Để thực sự vực dậy ngành sắn, cần một cuộc cách mạng toàn diện, từ chính sách đến thực tiễn, từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ.

Ngoài ra, việc mở rộng thị trường tiêu thụ, tìm kiếm các đối tác tiềm năng ở các quốc gia khác, cũng là một giải pháp quan trọng. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương, để xây dựng một chiến lược phát triển ngành sắn bền vững, hiệu quả./.

Hà Khải