Việt Nam có tiềm năng phát triển các nguồn năng lượng tái tạo
Trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với những thách thức nghiêm trọng do biến đổi khí hậu, những thách thức từ việc tăng cường tần suất các hiện tượng thời tiết cực đoan, như bão lũ, sóng thần, động đất ảnh hưởng con người, sinh vật, sản xuất, việc chuyển đổi các mô hình phát triển năng lượng tái tạo không chỉ là một lựa chọn cấp thiết mà còn là một xu hướng tất yếu để đảm bảo sự phát triển bền vững.
Đặc biệt, tại Việt Nam, với những cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ môi trường, cùng với nhu cầu phát triển năng lượng để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc phát triển năng lượng tái tạo đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách.
Năng lượng tái tạo là nguồn năng lượng được tái sinh tự nhiên và có thể tái tạo liên tục mà không cạn kiệt, như năng lượng mặt trời, gió, thủy điện, sinh khối, địa nhiệt, v.v. Việc phát triển năng lượng tái tạo có thể giúp đạt được các mục tiêu phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu thông qua các cách sau:
Giảm phát thải khí nhà kính: Năng lượng tái tạo không thải ra các khí nhà kính trong quá trình sản xuất điện, giúp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Đây là yếu tố quan trọng để đạt được các mục tiêu giảm phát thải theo các cam kết quốc tế như Thỏa thuận Paris.
Đảm bảo an ninh năng lượng: Năng lượng tái tạo giúp giảm sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng hóa thạch như than đá, dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, vốn có thể bị gián đoạn bởi các yếu tố chính trị, kinh tế hoặc tài nguyên hạn chế. Tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo sẽ giúp bảo đảm nguồn cung năng lượng bền vững và ổn định.
Tạo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng xanh: Ngành công nghiệp năng lượng tái tạo tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới trong các lĩnh vực như lắp đặt, bảo trì và vận hành các hệ thống năng lượng tái tạo. Điều này không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế mà còn hỗ trợ chuyển đổi sang nền kinh tế xanh và phát triển bền vững.
Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên: Năng lượng tái tạo không chỉ giúp giảm thiểu ô nhiễm không khí mà còn giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên. Ví dụ, năng lượng mặt trời và gió có tác động ít đến môi trường hơn so với các nguồn năng lượng truyền thống, như khai thác than hay dầu mỏ.
Những năm qua, ngành năng lượng Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng lớn trong việc phát triển các nguồn năng lượng tái tạo là thủy điện, năng lượng mặt trời và năng lượng gió, năng lượng sinh khối… Phát triển sử dụng năng lượng tái tạo vốn được đánh giá là vô tận sẽ giảm bớt sử dụng các nguồn năng lượng hóa thạch, tiết kiệm tài nguyên cho quốc gia, tạo nguồn năng lượng đa dạng và dồi dào. Theo báo cáo của Cơ quan năng lượng tái tạo quốc tế (IRENA), Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng trưởng năng lượng tái tạo cao nhất Đông Nam Á.
Theo đánh giá của các nghiên cứu gần đây, tiềm năng về kinh tế - kỹ thuật thủy điện của nước ta đạt khoảng 75 - 80 tỷ kWh với công suất tương ứng đạt 18.000 - 20.000MW. Hiện nay, sản lượng khai thác dầu thô trong nước của Petrovietnam trung bình đạt 7,5 - 8,5 triệu tấn/năm; sản lượng khí đạt 6 - 8 tỷ m3/năm. Hằng năm, Petrovietnam cung cấp trên 13,5 triệu tấn xăng dầu các loại, đáp ứng khoảng 70% nhu cầu xăng dầu trong nước; cung cấp 1,8 triệu sản phẩm hóa dầu; và cung cấp 1,6 - 1,7 triệu tấn phân đạm, đáp ứng 70 - 80% nhu cầu phân đạm trong nước (khoảng 2 triệu tấn/năm).
Petrovietnam đang vận hành thương mại 9 nhà máy điện với tổng công suất 6.600MW, tương đương 8,5% tổng công suất lắp đặt hệ thống điện quốc gia. Các sản phẩm chủ lực của Petrovietnam như dầu thô, xăng dầu, khí thiên nhiên, khí hóa lỏng, điện, đạm,… đã tham gia vào mọi hoạt động đời sống của đất nước với tỷ trọng lớn; góp phần quan trọng cho ổn định, phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh kinh tế.
Năng lượng tái tạo thu hút được sự quan tâm từ doanh nghiệp
Tuy nhiên, việc khai thác và sử dụng các nguồn năng lượng từ tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt. Vì vậy, việc nghiên cứu và sử dụng nguồn năng lượng xanh, năng lượng tái tạo như điện gió, mặt trời, địa nhiệt, năng lượng sinh khối là một nhu cầu tất yếu, được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Từ năm 2015, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định số 2068/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Chiến lược này xác định mục tiêu rõ ràng rằng: “Phát triển năng lượng tái tạo không chỉ tập trung mở rộng quy mô và tăng tỷ trọng nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung cấp năng lượng sơ cấp, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng, mà còn giải quyết vấn đề cung cấp năng lượng cho khu vực nông thôn, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, xây dựng một xã hội sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên, thân thiện môi trường.
Năng lượng tái tạo của Việt Nam thu hút được sự quan tâm đầu tư từ nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đơn cử như năm 2018, tổng đầu tư vào năng lượng tái tạo đạt mức kỷ lục 5,2 tỷ USD, gấp 9 lần so với năm 2017; các chương trình, dự án hỗ trợ quốc tế đạt tổng giá trị tài trợ khoảng 440 triệu USD; vốn vay ODA ước tính 420 triệu USD và 15,5 triệu USD là viện trợ không hoàn lại. Đầu tư năng lượng tái tạo từ vị trí thứ 10 (năm 2018) vươn lên vị trí thứ ba (năm 2019) trong xếp hạng các lĩnh vực đầu tư hấp dẫn nhất cả nước (chỉ sau công nghệ tài chính fintech và giáo dục).
Ngành năng lượng giữ vai trò thiết yếu trong sự phát triển kinh tế của nước ta. Việc đảm bảo nguồn cung năng lượng ổn định với chi phí hợp lý là nền tảng cốt lõi cho sự tăng trưởng bền vững. An ninh năng lượng, cùng với các biện pháp đảm bảo nó, luôn luôn là một ưu tiên trong chính sách quốc gia về năng lượng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự sụt giảm đầu tư vào năng lượng đã tạo ra khoảng trống đáng lo ngại, gây áp lực lớn lên an ninh năng lượng của đất nước. Trước bối cảnh nền kinh tế liên tục phát triển với tốc độ cao, việc coi an ninh năng lượng như một trụ cột trong chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Để bảo đảm an ninh năng lượng, Việt Nam đã và đang phải đối mặt không ít “điểm nghẽn”. Đó là tốc độ tăng cao của nhu cầu gây sức ép lên kết cấu hạ tầng ngành năng lượng, đòi hỏi vốn đầu tư lớn trong bối cảnh nợ công tăng cao và quá trình cổ phần hóa chưa thuận lợi. Bên cạnh đó, thách thức về tác động môi trường của các hoạt động cung cấp năng lượng sẽ ngày càng gia tăng do nhu cầu năng lượng trong nước tăng nhanh, đi kèm với sự gia tăng nhanh chóng về tỷ trọng các nguồn nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt là than trong cơ cấu nguồn cung năng lượng. Đáng chú ý, hạn chế về nguồn cung năng lượng sơ cấp trong nước dẫn đến sự phụ thuộc ngày càng tăng vào nguồn nhiên liệu nhập khẩu, nhất là nhiên liệu cho phát điện.
Báo cáo triển vọng năng lượng Việt Nam 2019 (EOR 2019) cho thấy, Việt Nam trở thành một nước nhập khẩu năng lượng, nhập khẩu thuần than kể từ 2015 và xu hướng này ngày càng tăng. Từ năm 2020 - 2030, nhập khẩu nhiên liệu tăng gấp 3 và 2050 sẽ tăng gấp 8 lần so với 2019. Điều này cho thấy, có 3/4 năng lượng tiêu thụ của Việt Nam là từ nguồn nhập khẩu.
Trước thực trạng trên, Chính phủ đã đặt ra mục tiêu đến năm 2025, Việt Nam thúc đẩy chuyển các nguồn năng lượng tái tạo như gió, mặt trời và sinh khối vào hệ thống điện quốc gia, hướng tới việc sản xuất và sử dụng 62 MTOE năng lượng tái tạo vào năm 2030 và tăng lên 138 MTOE vào năm 2050, với tỷ trọng năng lượng tái tạo dự kiến đạt 32,3% vào năm 2030 và 44% vào năm 2050. Việc phát triển năng lượng tái tạo không chỉ đóng góp vào mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính mà còn tạo nền tảng cho sự an toàn và ổn định năng lượng dài hạn.
Nhận diện những vướng mắc và đề xuất giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
Đánh giá lại về tình hình triển khai Dự án điện năng lượng tái tạo thời gian qua, Bộ Công Thương cho biết thực hiện chủ trương phát triển năng lượng tái tạo là giải pháp mới, chưa có tiền lệ, thiếu kinh nghiệm, hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh nên quá trình triển khai còn phát sinh một số sai phạm đã được Thanh tra Chính phủ kết luận cụ thể tại Kết luận số 1027.
Các sai phạm chủ yếu như: Hưởng cơ chế giá khuyến khích không đúng đối tượng; Công nhận ngày vận hành thương mại và hưởng giá FIT khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản chấp thuận; Chồng lấn quy hoạch khoáng sản...
Để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho các dự án điện năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương cho biết sẽ tuân thủ 6 quan điểm.
Thứ nhất, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án điện năng lượng tái tạo để không lãng phí nguồn lực đã đầu tư, góp phần thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị, Quy hoạch điện 8, cam kết của Việt Nam tại COP 26, bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, tạo môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút các nguồn lực bên ngoài.
Thứ hai, lựa chọn phương án xử lý tối ưu trên cơ sở phân tích, đánh giá, so sánh lợi ích về kinh tế - xã hội và hạn chế tối đa tranh chấp, khiếu kiện, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư; đảm bảo an ninh trật tự, an ninh năng lượng quốc và hài hòa lợi ích nhà nước - nhà đầu tư.
Thứ ba, tiếp tục điều tra, xử lý nghiêm theo quy định pháp luật đối với các vụ án đã khởi tố. Trong quá trình tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, trường hợp phát hiện vi phạm, tham nhũng thì tiếp tục xử lý nghiêm.
Thứ tư, thống nhất quan điểm xử lý hình sự là biện pháp cuối cùng khi không thể xử lý các vi phạm, vướng mắc bằng các giải pháp kinh tế; nếu pháp luật hiện hành có thay đổi, không gây ra hậu quả hoặc không phát hiện hành vi tham nhũng thì không xử lý hình sự.
Thứ năm, không hợp pháp hóa để miễn trừ xử lý cho các hành vi tham nhũng, các hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân, tổ chức đã gây ra thiệt hại. Không làm phát sinh sai phạm mới. Không để xảy ra tham nhũng, tiêu cực trong quá trình tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án. Việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án được coi là hợp pháp khi được cấp có thẩm quyền đồng ý.
Thứ sáu, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên theo quy định pháp luật.
Bộ Công Thương đề xuất 6 nhóm giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án điện năng lượng tái tạo.
Một là, cho phép bổ sung quy hoạch để triển khai thực hiện trong trường hợp dự án không có nội dung vi phạm các quy định liên quan đến an ninh quốc phòng, quy hoạch các công trình, dự án trọng điểm quốc gia.
Hai là, đối với các dự án có sai phạm về quy trình, thủ tục liên quan đến đất đai, xây dựng công trình thì cho phép hoàn thiện theo quy định của pháp luật.
Ba là, đối với các dự án vi phạm các quy hoạch về khoáng sản, thủy lợi, quốc phòng... thì thực hiện đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội giữa việc thực hiện quy hoạch và thực hiện dự án để điều chỉnh quy hoạch bị chồng lấn cho phù hợp hoặc tích hợp và thực hiện đồng thời cả dự án điện năng lượng tái tạo và quy hoạch liên quan (lưỡng dụng quy hoạch).
Bốn là, đối với các dự án đang được hưởng giá FIT (biểu giá điện hỗ trợ) có vi phạm theo Kết luận của cơ quan có thẩm quyền do không đáp ứng đầy đủ các điều kiện được hưởng giá FIT thì phải xác định lại giá mua bán điện theo quy định; thu hồi lại các khoản giá FIT ưu đãi đã được hưởng không đúng thông qua bù trừ thanh toán tiền mua điện.
Năm là, đối với các dự án điện mặt trời mái nhà xây dựng trên đất nông, lâm nghiệp với công suất lớn dưới mô hình đầu tư trang trại nuôi trồng mà đất chưa phù hợp để làm trang trại thì yêu cầu các chủ đầu tư cần: Thực hiện đầy đủ thủ tục xây dựng, đầu tư trang trại nuôi trồng kết hợp với thực hiện dự án điện năng lượng tái tạo theo quy định của pháp luật; Thực hiện ngay các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước theo quy định.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền phải xác định vi phạm về đất để làm trang trại thì sẽ xác định lại giá mua bán điện theo quy định; thu hồi lại các khoản giá FIT ưu đãi đã được hưởng không đúng thông qua bù trừ thanh toán tiền mua điện và thực hiện đầy đủ các hoạt động trang trại nuôi trồng theo đúng đăng ký đầu tư ban đầu.
Sáu là, đối với đối tượng bị thu lại giá FIT, cơ quan có thẩm quyền ban hành quy định về mua bán điện khi cấp có thẩm quyền xác định dự án bị thu hồi giá FIT ưu đãi để làm căn cứ bù trừ thanh toán tiền mua điện./.