Cơ hội, thách thức và tiềm năng của Việt Nam trong “Chuyển dịch năng lượng hướng tới nền kinh tế xanh”

Với chủ đề: “Chuyển dịch năng lượng hướng tới nền kinh tế xanh” - điểm nhấn của Hội thảo - công bố "báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2024", các đại biểu đã phân tích làm rõ những cơ hội, thách thức và tiềm năng của Việt Nam trong thời gian tới. Trong khuôn khổ Hội thảo, Viện nghiên cứu kinh tế và chính sách, thuộc trường Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội đưa ra nhận định "Kinh tế nước ta trong năm 2024 có thể diễn biến theo 2 kịch bản".

Sáng 20/6, tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo Công bố Báo cáo Kinh tế thường niên Việt Nam 2024 do Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) trực thuộc Trường Đại học Kinh Tế - Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) phối hợp với Viện Friedrich Naumann Foundation (FNF) Việt Nam tổ chức. Hội thảo có sự tham dự của nhiều nhà hoạch định chính sách và chuyên gia cao cấp về kinh tế trong và ngoài nước.

hoi-thao-tang-truong-kinh-te-1-1718875073.jpg
Toàn cảnh Hội thảo - công bố "báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2024".

Hai kịch bản tang trưởng kinh tế 2024

Phát biểu tại hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Trúc Lê, Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN cho biết: Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2024 với chủ đề "Chuyển dịch năng lượng hướng tới nền kinh tế xanh". Chuyển đổi xanh là yêu cầu thực tiễn và xu hướng thời đại, mang tầm vóc toàn cầu, đang ngày càng trở thành ưu tiên hàng đầu của Việt Nam trên hành trình hội nhập, hướng tới phát triển bền vững và toàn diện.

Theo ông Nguyễn Trúc Lê, là một trong những quốc gia châu Á có tham vọng lớn nhất tại COP26, chiến lược phát thải ròng bằng 0 của Việt Nam cam kết giảm 43,5% lượng khí thải vào năm 2030. Tuy nhiên, áp lực ngày càng tăng từ các quy định nghiêm ngặt về môi trường của các nước phát triển đang thúc giục Chính phủ cũng như các doanh nghiệp Việt Nam tham gia nhanh và mạnh mẽ hơn vào chuyển dịch năng lượng hướng tới xanh hóa nền kinh tế. Điều này vừa là thách thức, vừa là cơ hội để các quốc gia như Việt Nam đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh và tận dụng các cơ hội hợp tác thương mại, đầu tư mới.

Theo đánh giá của Viện nghiên cứu Kinh tế và chính sách, nửa đầu năm 2024, tăng trưởng GDP của Việt Nam phục hồi khá (Quý I đạt 5,66% so với cùng kỳ 2023, Quý II/2024 ước đạt 6% và 6 tháng đầu năm ước đạt 5,8%). Kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm 2024 mặc dù vẫn khó khăn nhưng được kỳ vọng tăng trưởng tốt hơn so với cùng kỳ năm ngoái.

hoi-thao-tang-truong-kinh-te-2-1718875109.jpg
PGS.TS. Nguyễn Trúc Lê, Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN phát biểu tại Hội thảo.

Kinh tế nước ta trong năm 2024 có thể diễn biến theo 2 kịch bản. Thứ nhất, tăng trưởng GDP 2024 ở mức 5,85%, lạm phát ở mức 4,5%, tỷ giá VND bình quân năm mất giá ở mức 5-6% năm 2024, giải ngân đầu tư công đạt mục tiêu đề ra cũng như đầu tư FDI không có biến động bất thường trong nửa cuối năm 2024.

Kịch bản thứ 2 là điều chỉnh chính sách tăng GDP 2024 ở mức 6.01% với điều kiện có điều chỉnh chính sách giảm chênh lệch lãi suất đồng Việt Nam trong nước và các các ngoại tệ mạnh trên thị trường quốc tế, giảm chênh lệch về lãi suất thực về huy động giữa đồng VND và USD, góp phần làm tăng cấu phần xuất khẩu ròng đạt mức 24 tỷ USD. Tăng trưởng đầu tư công và tư tốt hơn nhờ cải thiện môi trường đầu tư, kiểm soát tốt lạm phát ở mức 5%. Trong cả hai kịch bản, nền kinh tế đều đang hoạt động dưới mức tiềm năng.

Chuyên gia kinh tế, TS. Cấn Văn Lực cho rằng: "Từ nay đến cuối năm, thách thức lớn nhất của chúng ta là cân bằng, hài hòa giữa lãi suất và tỷ giá, giữa tăng trưởng và kiểm soát lạm phát. Mặc dù từ đầu năm đến nay, tỷ giá của chúng ta tăng khoảng 4,5%, nhưng chúng tôi dự báo sẽ dịu dần từ quý 3 và cả năm, tỷ giá của chúng ta sẽ tăng từ 3,5 đến 4%. Đây là mức rất khả thi".

Nhận diện thách thức chính trong chuyển đổi năng lượng của Việt Nam

Với chủ đề: “Chuyển dịch năng lượng hướng tới nền kinh tế xanh” - điểm nhấn của "báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2024", các đại biểu đã phân tích làm rõ những cơ hội, thách thức và tiềm năng của Việt Nam trong thời gian tới. Hai thách thức chính trong chuyển đổi năng lượng của Việt Nam vẫn là cơ sở hạ tầng và kinh phí.

Ông Phạm Hồng Điệp, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Shinec, Chủ đầu tư Khu công nghiệp Nam Cầu Kiền, thành phố Hải Phòng nêu thực tế: "Trong quá trình chuyển đổi xanh thì luật của chúng ta còn chưa đồng bộ. Các Luật không tích hợp được với nhau, khi triển khai thì rất khó cho các cơ quan công quyền trong giải quyết thủ tục hành chính trong phát triển xanh. Đó là khó khăn lớn nhất. Đối với vấn đề vốn không quan trọng bằng chính sách. Nguồn vốn sẽ có khi chúng ta có chính sách tốt."

Việt Nam đang khai thác gần như tối đa tiềm năng các nguồn tài nguyên hoá thạch nội địa và sẽ phải nhập khẩu thêm nhiên liệu than, khí. Việt Nam đã trở thành một quốc gia nhập khẩu năng lượng ròng từ năm 2015. Xu hướng giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu năng lượng ngày càng rõ.

Kết luận hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Anh Thu, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN đã đưa ra những đánh giá nhằm gợi mở một số khuyến nghị chính sách quan trọng:

Thứ nhất, trong ngắn hạn, để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6-6,5% năm 2024, cần tiếp tục ưu tiên trọng tâm công cụ tài chính của chính sách tài khóa thúc đẩy tổng cầu; tăng cường giải ngân đầu tư công đảm bảo đúng tiến độ và tập trung, đặc biệt là các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng.

Do động lực tiêu dùng nội địa còn yếu, cần tiếp tục giảm thuế VAT trong năm 2024 cân nhắc mở rộng thêm đối tượng áp dụng. Có thêm chương trình và chính sách kích cầu tiêu dùng cụ thể, và cần đi theo hướng hỗ trợ trực tiếp người tiêu dùng thanh toán chi phí mua sản phẩm/dịch vụ, nhất là để định hướng tiêu dùng theo các xu hướng tiêu dùng xanh, sạch, bảo vệ môi trường góp phần thực thiện cam kết Net Zero vào năm 2050.

Cần có thêm các gói tín dụng cho doanh nghiệp để đầu tư sản xuất bền vững, trung hòa cacbon. Chính phủ cần sớm công bố danh mục phân loại xanh để các doanh nghiệp đủ điều kiện có thể dễ dàng tiếp cận các nguồn tín dụng xanh trong nước và nước ngoài. Tiếp thêm vốn cho các quỹ bảo lãnh tín dụng ở các địa phương, tăng cường cho vay tín chấp đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thúc đẩy thực hiện xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ để làm căn cứ cho các quỹ có thể bảo lãnh tín chấp.

Ngoài ra, đảm bảo hài hoà, hiệu quả trong mục tiêu tăng trưởng tín dụng hỗ trợ sản xuất - kinh doanh cho doanh nghiệp nói riêng, thúc đẩy tiêu dùng và phục hồi tăng trưởng nói chung. Thúc đẩy đa dạng hoá các kênh dẫn vốn và đầu tư ngoài tín dụng ngân hàng (nâng cao hiệu quả và tính minh bạch thị trường cổ phiếu, trái phiếu, các kênh dẫn vốn khác gắn với tín dụng xanh, chuyển dịch năng lượng công bằng, cho thuê tài chính…)

hoi-thao-tang-truong-kinh-te-3-1718875149.jpg
Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam là sản phẩm của Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách trực thuộc Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, đã liên tục công bố trong 16 năm qua.

Thứ hai, trong trung, dài hạn, cần hoàn thiện chiến lược chuyển đổi số quốc gia, thúc đẩy các yếu tố tạo giá trị gia tăng thực của nền kinh tế số, như công nghệ phần mềm, kinh doanh nền tảng, thương mại điện tử để tạo ra động lực đổi mới sáng tạo.

Nghiên cứu hoàn thiện mô hình phát triển nhà ở xã hội để khắc phục những hạn chế hiện nay. Thành lập doanh nghiệp nhà nước chuyên thực hiện phát triển nhà ở xã hội (đầu tư, quản lý nhà ở xã hội). Phát triển nhà ở xã hội ngoài mục tiêu chính là hỗ trợ đảm bảo an sinh xã hội, còn có vai trò quan trọng trong hỗ trợ cân bằng thị trường bất động sản. Bên cạnh đó, phát triển nhà ở xã hội là mục tiêu dài hạn, xuyên suốt và việc giao thị trường, nhất là khu vực tư nhân sẽ khó đảm bảo mục tiêu xã hội do tính thương mại và khó khăn trong triển khai dự án đầu tư và quản lý nhà ở xã hội giai đoạn vận hành.

Cần tiếp tục chú trọng các giải pháp kích thích đầu tư, nhất là đầu tư tư nhân để đảm bảo tổng mức đầu tư toàn xã hội đạt mức cao và mở rộng cung tiền hợp lý nhằm kích thích tăng trưởng, như tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên; Tập trung tháo gỡ các khó khăn trên thị trường bất động sản, gói tín dụng nhà ở xã hội và phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Đồng thời, tiếp tục tăng cường cải cách hành chính, như các giao dịch dân sự, thủ tục đầu tư, phòng cháy chữa cháy...); cải thiện môi trường kinh doanh.

Để hỗ trợ Doanh nghiệp, ưu tiên các chính sách và cải cách nhằm tháo gỡ khó khăn, giảm gánh nặng cho các doanh nghiệp, tạo dựng niềm tin vào môi trường đầu tư để khuyến khích doanh nghiệp quay lại thị trường và mở rộng quy mô. Các chính sách hỗ trợ đặc biệt cho các doanh nghiệp cần cụ thể và khả thi (chính sách hỗ trợ xuất khẩu khá thành công). Về lâu về dài, các chính sách tổng thể nhằm nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của ngành, doanh nghiệp./.

Bình Châu