Quảng cáo #128

Việt Nam thực hiện tốt cam kết quốc tế trong loại trừ các chất được kiểm soát nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu

Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả về quản lý, loại trừ các chất được kiểm soát theo lộ trình cam kết với quốc tế. Việt Nam đã loại trừ tiêu thụ 220 triệu tấn các-bon thông qua hoạt động loại trừ các chất được kiểm soát kể từ năm 1994 đến nay.

Ngày 10/12, tại Hà Nội, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) tổ chức Hội thảo phổ biến "Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát".

suy-giam-tang-o-zon-2-1733831004.jpg
Toàn cảnh Hội thảo “Phổ biến Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ozone, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát”. (Ảnh TL)

Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ozone

Phát biểu tại hội thảo, ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu cho biết: Hoạt động bảo vệ tầng ozone có ý nghĩa quan trọng trong sản xuất, sinh hoạt của con người trên toàn hành tinh. Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ tầng ozone, Việt Nam đã sớm phê chuẩn tham gia Công ước Vienna về bảo vệ tầng ô-dôn, Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ozone từ năm 1994.

Với vai trò là cơ quan đầu mối quốc gia về bảo vệ tầng ozone, trong thời gian qua Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức từng bước hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật và tích cực triển khai các hoạt động quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của quốc gia thành viên với Nghị định thư Montreal.

Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ozone như: Hoàn thành loại trừ tiêu thụ hoàn toàn các chất CFC, Halon và CTC; chất Methyl bromide được quản lý, kiểm soát theo mục đích: chỉ nhập khẩu cho mục đích khử trùng và kiểm dịch hàng hóa; chất HCFC được quản lý, loại trừ theo lộ trình từ năm 2013, tiến tới loại trừ hoàn toàn các chất này từ ngày 1/1/2040.

Năm 2019, Việt Nam phê duyệt tham gia Bản sửa đổi, bổ sung Kigali thuộc Nghị định thư Montreal nhằm mục tiêu không tăng lượng tiêu thụ các chất HFC theo lộ trình từ năm 2024, tiến tới giảm 80% lượng tiêu thụ từ năm 2045. Nếu được thực thi đồng bộ trên toàn cầu sẽ giúp giữ cho nhiệt độ trái đất không gia tăng 0,5 độ C vào cuối thế kỷ này, và sẽ đạt hiệu quả gấp đôi nếu kết hợp cùng với các giải pháp về tiết kiệm năng lượng.

suy-giam-tang-o-zon-1-1733831061.jpg
Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu phát biểu tại Hội thảo. (Ảnh TL)

Năm 2024 đánh dấu mốc 30 năm Việt Nam tham gia Công ước Vienna, Nghị định thư Montreal. Theo thống kê, đánh giá của Ban Thư ký Ozone công bố tại kỳ họp tháng 7 năm 2024, Việt Nam đã loại trừ tiêu thụ 220 triệu tấn carbon thông qua hoạt động loại trừ các chất được kiểm soát kể từ năm 1994 đến nay. Việt Nam được quốc tế đánh giá là thành viên tích cực, có trách nhiệm cao; nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp và đạt được nhiều kết quả quan trọng trong quản lý, loại trừ các chất được kiểm soát.

Việt Nam cũng đã tham gia Liên minh Tăng cường hiệu quả làm mát do Chương trình Môi trường Liên hợp quốc khởi xướng, Sáng kiến về quản lý vòng đời các chất Fluorocarbon do Nhật Bản khởi xướng và tham gia Cam kết làm mát toàn cầu để cùng cộng đồng quốc tế thực hiện mục tiêu giảm phát thải toàn cầu đối với các hoạt động làm mát trong tất cả các lĩnh vực đạt ít nhất 68% vào năm 2050 so với năm 2022 để giữ mức tăng nhiệt độ ở ngưỡng 1,5 độ C.

Triển khai thực hiện nội dung về bảo vệ tầng ozone quy định tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát tại Quyết định số 496/QĐ-TTg ngày 11 tháng 6 năm 2024. Kế hoạch tích hợp toàn diện các yêu cầu quản lý mới để triển khai thực hiện đồng bộ các cam kết quốc tế, sáng kiến ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ tầng ô-dôn và làm mát bền vững mà Việt Nam đã tham gia.

Việt Nam sẽ loại trừ 11,2 triệu tấn CO2tđ từ hoạt động loại trừ các chất được kiểm soát

Chia sẻ về quy định pháp luật trong quản lý, loại trừ chất được kiểm soát, bà Nguyễn Đặng Thu Cúc, đại diện Cục Biến đổi khí hậu cho biết: Thực hiện theo đúng lộ trình, Việt Nam đã thực hiện quản lý loại trừ HCFC, và đối với HFC bắt đầu thực hiện từ năm 2024. Cơ sở sản xuất thiết bị, sản phẩm có chứa hoặc sử dụng chất được kiểm soát phải xây dựng lộ trình phù hợp để thay thế, loại bỏ chất được kiểm soát.

Cơ sở sử dụng thiết bị, sản phẩm có chứa hoặc sử dụng chất được kiểm soát phải thực hiện quy định về thu gom, vận chuyển, tái chế, tái sử dụng và tiêu hủy theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có sử dụng chất được kiểm soát thực hiện việc chuyển đổi công nghệ bảo vệ tầng ô-dôn được hưởng ưu đãi, hỗ trợ theo quy định.

Theo Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát, đến năm 2045, Việt Nam sẽ loại trừ 11,2 triệu tấn CO2tđ từ hoạt động loại trừ các chất được kiểm soát.

Kế hoạch cũng đề ra lộ trình tương ứng với các mục tiêu cụ thể, nhằm đảm bảo loại trừ dần các chất mà vẫn duy trì ổn định hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các ngành nghề liên quan. Trong đó, Việt Nam sẽ thực hiện tốt cam kết không sản xuất, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất và tiêu thụ các chất; sản phẩm/thiết bị từ chất cấm. Thực hiện tốt lộ trình quản lý, loại trừ các chất HCFC nhằm không nhập khẩu và xuất khẩu từ năm 2040. Tăng cường thúc đẩy chuyển đổi công nghệ tiết kiệm năng lượng sử dụng các chất thay thế nhằm giảm dần lượng tiêu thụ các chất HFC, góp phần giảm đến 80% lượng tiêu thụ vào năm 2045. Chỉ nhập khẩu, sử dụng chất Methyl bromide cho mục đích khử trùng và kiểm dịch hàng xuất khẩu.

suy-giam-tang-o-zon-3-1733831125.jpg
PGS.TS. Nguyễn Việt Dũng - Phó Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật Lạnh và Điều hòa Không khí Việt Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Cơ khí (Đại học Bách Khoa Hà Nội) phát biểu tại hội thảo.

PGS.TS. Nguyễn Việt Dũng, Phó Hiệu trưởng Trường cơ khí (Đại học Bách Khoa Hà Nội) cho biết, lĩnh vực làm lạnh trong điều hòa không khí là một lĩnh vực gây hiệu ứng nhà kính và gây nóng lên toàn cầu gần như là lớn nhất. Theo thống kê năm 2026 tổng tiêu thụ điện thương phẩm cho lĩnh vực này khoảng từ 15-16%. Đến năm 2030 dự báo sẽ tăng lên 30%.

“Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa trên toàn thế giới đang diễn ra rất nhanh. Đến năm 2050 phần lớn dân số sống ở khu vực đô thị. Vì vậy nhu cầu làm mát từ điều hòa, xử lý chất lượng không khí ngày càng tăng lên. Hiện nay chúng ta đang chuyển đổi số rất nhanh, ngày càng áp dụng công nghệ số, công nghiệp 4.0,… vì vậy gia tăng công nghệ làm mát cho hoạt động lưu trữ và truyền thông giữ liệu.

Trong khi lĩnh vực này tiêu thụ năng lượng rất lớn. Lĩnh vực làm lạnh tiêu thụ điện rất lớn, muốn làm lạnh được thì phải có chất làm lạnh. Tiềm năng nóng lên toàn cầu của chất làm lạnh này gấp hàng nghìn lần đến hàng chục nghìn lần. Tuy có vẻ lĩnh vực điều hòa không khí là hẹp nhưng đóng góp cho tổng phát thải khí nhà kính là rất lớn, đến 2030 sẽ lên đến 20%”, ông Nguyễn Việt Dũng chia sẻ.

Theo Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Cơ khí, Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã quy định rõ về bảo vệ tầng ô dôn và kiểm soát các chất gây lên hiệu ứng toàn cầu. Tháng 6/2024 Thủ tướng đã phê chuẩn Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát. Lĩnh vực làm mát đóng vai trò lòng cốt.

Trong đó, có 4 trụ cột: Thứ nhất là kiểm soát lượng chất nhập khẩu theo hạn ngạch giảm theo từng năm; Thứ 2 là kiểm soát sản xuất, nhập khẩu các thiết bị có chứa chất làm mát, theo lộ trình khống chế chất làm mát theo tiềm năng nóng lên toàn cầu; Thứ 3, những chất nhập khẩu vào rồi thì quản lý theo vòng đời và tái tuần hoàn; Thứ 4 sẽ làm mát bền vững trong đô thị, làm giảm chi phí năng lượng và giảm phát thải.

Cũng tại hội thảo, đại diện các cơ quan quản lý Trung ương và địa phương, doanh nghiệp, các hiệp hội và hội chuyên ngành, ban quản lý các tòa nhà đã cùng thảo luận làm rõ các khó khăn, vướng mắc hiện nay trong thực hiện các quy định pháp luật, đồng thời, đề xuất các giải pháp tháo gỡ nhằm thực hiện thành công Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát./.

Các mục tiêu cụ thể thực hiện Kế hoạch đến năm 2045 như sau:

Về quản lý, loại trừ các chất được kiểm soát: Thực hiện tốt cam kết không sản xuất, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất và tiêu thụ các chất và sản phẩm, thiết bị có chứa hoặc sản xuất từ các chất đã loại trừ hoàn toàn; loại trừ, giảm dần tiêu thụ các chất được kiểm soát theo lộ trình quy định.

Về quản lý sản phẩm, thiết bị sử dụng các chất HCFC và HFC theo giá trị tiềm năng làm nóng lên toàn cầu: Sản phẩm, thiết bị được sản xuất, nhập khẩu sử dụng các chất được kiểm soát có giá trị tiềm năng làm nóng lên toàn cầu được giảm theo lộ trình nêu tại Kế hoạch. Cải thiện hiệu suất năng lượng trung bình của thiết bị sản xuất và nhập khẩu sử dụng chất được kiểm soát.

Về quản lý vòng đời các chất được kiểm soát: Kỹ thuật viên thực hiện hoạt động lắp đặt, vận hành, bảo dưỡng sản phẩm, thiết bị có chứa các chất được kiểm soát có văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận phù hợp. Các chất được kiểm soát được thu gom, lưu giữ, vận chuyển, tái sử dụng và tái chế đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, hoặc xử lý để tiêu hủy nếu không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật.

Về làm mát bền vững: Các yêu cầu về giảm hiệu ứng đảo nhiệt đô thị và chống chịu với nắng nóng cực đoan được nghiên cứu, lồng ghép trong các chương trình phát triển đô thị cấp quốc gia, cấp tỉnh, kế hoạch, quy hoạch của quốc gia và từng địa phương; từng bước cải thiện tiêu chuẩn kỹ thuật trong thiết kế, xây dựng và vận hành công trình đáp ứng mức cân bằng về năng lượng, đạt tiêu chí công nhận công trình xanh. Triển khai các giải pháp làm mát bền vững tại các đô thị đặc biệt, đô thị loại I và loại II; phổ biến và nhân rộng các mô hình kinh doanh dịch vụ làm mát tại các khu đô thị, khu dân cư, tòa nhà văn phòng, thương mại và công trình công cộng.

Bình Châu