Vai trò của các hiệp hội và doanh nghiệp với sự phát triển kinh tế xanh

Trước thực trạng của tình hình biến đổi khí hậu và cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, phát triển kinh tế xanh đã trở thành xu hướng tất yếu của kinh tế thế giới hiện đại.

Phát triển kinh tế xanh là xu hướng tìm kiếm mô hình tăng trưởng mới, tạo ra động lực tăng trưởng và mang tính cạnh tranh cao, đồng thời thể hiện những nỗ lực của các chính phủ trong tái cấu trúc nền kinh tế hướng đến một dạng thức tăng trưởng xanh bền vững.

Quan hệ giữa Doanh nghiệp và Kinh tế xanh

Trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế xanh - Green Economy. Liên minh châu Âu (EU) cho rằng “Kinh tế xanh là nền kinh tế tăng trưởng thông minh, bền vững và công bằng” (European Commission, 2010). Nhóm Liên minh kinh tế xanh định nghĩa kinh tế xanh là “nền kinh tế tạo ra chất lượng cuộc sống tốt hơn cho tất cả mọi người trong giới hạn sinh thái của trái đất” (Green Economy Coalition, 2012). Phòng Thương mại Quốc tế xem xét kinh tế xanh từ góc độ kinh doanh và cho rằng “Kinh tế xanh là nền kinh tế mà tăng trưởng và trách nghiệm môi trường đi đôi với nhau và tương hỗ cho nhau, đồng thời hỗ trợ quá trình phát triển xã hội” (ICC, 2012). Báo cáo của Ủy ban các vấn đề Kinh tế - Xã hội của Liên hợp quốc (UNDESA, 2012) tổng hợp các định nghĩa của nhiều quốc gia và chỉ ra điểm chung mà một nền kinh tế xanh cần hướng tới là việc giảm các tác động tiêu cực của hoạt động kinh tế tới môi trường và xã hội. Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) đưa ra khái niệm về kinh tế xanh “là nền kinh tế mang lại phúc lợi cho con người và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các nguy cơ về môi trường và suy giảm sinh thái”. Đây được coi là định nghĩa đầy đủ nhất về kinh tế xanh. Theo đó, kinh tế xanh đơn giản là một nền kinh tế có mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo tính công bằng về mặt xã hội.

cang-bien-1632997051.jpg
Ảnh minh họa

Do hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều phát thải khí nhà kính, nguyên nhân gây biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường, nên việc giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính được coi là vấn đề then chốt, nằm trong số những tiêu chí quan trọng của tăng trưởng xanh. Số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy, năm 2010, tổng lượng phát thải khí nhà kính là 266 triệu tấn CO2, trong đó phát thải trong năng lượng chiếm tỷ trọng lớn nhất: 53,05%, tiếp theo là nông nghiệp: 33,20%. Phát thải từ các quá trình công nghiệp và chất thải tương ứng là 7,97% và 5,78%.

Sau 4 năm, tổng lượng phát thải khí nhà kính (năm 2014) tại Việt Nam là 321,5 triệu tấn CO2. Trong các lĩnh vực có phát thải khí nhà kính của năm 2014, tỷ lệ phát thải khí nhà kính ngành năng lượng (bao gồm hoạt động giao thông vận tải) lớn nhất chiếm 53,8%, tiếp theo là ngành nông nghiệp chiếm 27,92%, quá trình công nghiệp và tiêu thụ sản phẩm (IPPU) chiếm 12,01% và chất thải chiếm 6,69%. Dự báo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tổng lượng phát thải khí nhà kính sẽ lên đến 447,1 triệu tấn vào cuối năm 2020 và đạt tới 787,4 triệu tấn vào năm 2030 nếu như Việt Nam không có các biện pháp khắc phục.

Trước tình hình đó, chúng ta đã định hướng đến năm 2030 giảm mức phát thải mỗi năm ít nhất 1,5-2% GDP, giảm lượng phát thải trong các hoạt động năng lượng từ 20-30%; Đến năm 2050 giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 1,5-2%; Thực hiện chiến lược “công nghiệp hóa sạch” thông qua rà soát, điều chỉnh những quy hoạch ngành hiện có, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, khuyến khích phát triển công nghiệp xanh, nông nghiệp xanh với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị đảm bảo nguyên tắc thân thiện với môi trường.

Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp đã tích cực đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ, không chỉ để từng bước tiếp cận, hoàn thiện phương pháp quản lý tiên tiến, cải thiện khả năng cạnh tranh trên thương trường, mà còn từng bước giảm thiểu phát thải. Qua đó, một mặt nâng cao giá trị sản phẩm, thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, góp phần đáng kể vào thành tựu phát triển kinh tế đất nước, mặt khác từng bước thực hiện trách nhiệm xã hội của mình với những mức độ, hình thức khác nhau nhằm bảo vệ môi trường và chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của người lao động trong doanh nghiệp. Đây là mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển doanh nghiệp và định hướng phát triển kinh tế xanh.

Với những ý tưởng về nền kinh tế xanh, một nền kinh tế vừa thỏa mãn nhu cầu tăng trưởng kinh tế, vừa giải quyết được những thách thức về môi trường đã được nhiều nhà khoa học đề cập. Trong đó, hầu hết các nghiên cứu đều thống nhất quan điểm, xu hướng phát triển kinh tế xanh tập trung bám sát vào 3 trụ cột chính, đó là: Công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.

images-1632955252.jpg
Ảnh minh họa

Các nhà nghiên cứu cũng khẳng định khái niệm “kinh tế xanh” không thay thế khái niệm bền vững, nhưng nó ngày càng được công nhận là mô hình phù hợp, làm nền tảng cho phát triển bền vững. Trong đó, tính bền vững là một mục tiêu dài hạn quan trọng, nhưng xanh hóa nền kinh tế là phương tiện đưa mỗi quốc gia đi tới đích - phát triển bền vững.

Trong xã hội hiện đại, phát triển bền vững là một xu thế tất yếu. Phải đáp ứng được nhu cầu hiện tại mà không làm phương hại đến khả năng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Vấn đề phát triển bền vững, phát triển kinh tế xanh đã được quan tâm ở các nước có nền kinh tế phát triển, nhưng ở các nước đang phát triển thì kinh tế xanh còn nhiều vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp.

Việt Nam đã xác định tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đó là chiến lược Quốc gia về biến đổi khí hậu. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược Tăng trưởng xanh là “tiến tới nền kinh tế carbon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội”. Chính vì thế, việc tăng cường đầu tư cho các lĩnh vực giúp bảo vệ và phát triển vốn tự nhiên của trái đất, hạn chế suy giảm sinh thái và các rủi ro về môi trường, bao gồm: Năng lượng tái tạo, giao thông phát thải carbon thấp, sử dụng các công nghệ sạch, hệ thống quản lý chất thải, hệ thống cung cấp nước sạch tiên tiến, phát triển nông - lâm - ngư nghiệp xanh, bền vững là mục tiêu và sứ mệnh quan trọng. 

Trong nền kinh tế xanh, sự tăng trưởng về thu nhập, việc làm, thông qua việc đầu tư của Nhà nước và tư nhân cho nền kinh tế làm giảm thiểu phát thải carbon, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên, ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học và dịch vụ của hệ sinh thái. Kinh tế xanh đặt ra mục tiêu cho các doanh nghiệp không chỉ phát triển kinh tế mà còn phải quan tâm tới các vấn đề môi trường, sinh thái, công bằng xã hội, bảo vệ không gian xanh, sạch, đem lại cuộc sống an toàn và hạnh phúc cho con người.

Phát triển doanh nghiệp gắn với tăng trưởng xanh

Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 1999, khối doanh nghiệp đã có sự phát triển nhanh chóng, khi Luật Doanh nghiệp năm 2005 được thông qua, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thành lập và hoạt động hiệu quả. Doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn, định hướng thị trường, nhanh chóng mang các sản phẩm, dịch vụ của mình đến gần hơn với khách hàng.

Quá trình đổi mới của đất nước đã tạo môi trường và điều kiện ngày càng thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế; đồng thời, doanh nhân - những người quyết định thành bại của doanh nghiệp, đã hình thành một tầng lớp đông đảo, đến nay có hơn năm triệu người, chưa kể nông dân sản xuất các sản phẩm cung cấp cho thị trường, trở thành người kinh doanh.

Trong hơn năm triệu người đó khoảng một phần ba là doanh nhân làm chủ, trực tiếp quản lý các doanh nghiệp. Doanh nghiệp ở đây được dùng theo nghĩa rộng bao gồm cả hợp tác xã, trang trại hoặc kinh doanh cá thể có đăng ký. Ai cũng thấy trong nền kinh tế thị trường, doanh nhân là người có vai trò quyết định sự phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần quan trọng tạo việc làm, đóng góp cho ngân sách nhà nước, và tham gia phát triển văn hoá, xã hội.

ca-tra-vov-1-okup-1632831039.jpeg
Ảnh minh họa ( VOV)

Sự phát triển của kinh tế thị trường đặt doanh nhân cùng các doanh nghiệp vào địa vị đối tác quan trọng trong việc đặt hàng, ứng dụng kết quả nghiên cứu của các cơ sở khoa học và công nghệ, đồng thời nâng cao năng lực nghiên cứu công nghệ của doanh nghiệp. Sự liên kết trí thức với doanh nhân vừa thúc đẩy sự phát triển khoa học và công nghệ gắn với thực tiễn, vừa nâng cao trình độ công nghệ và quản trị doanh nghiệp.  

Là nước chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, Việt Nam xác định phương thức tăng trưởng xanh là nỗ lực của Chính phủ trong quá trình thực hiện cam kết với cộng đồng quốc tế cùng chung tay ứng phó với biến đổi khí hậu. Đồng thời, đó cũng là cơ hội nâng cao đời sống cho người dân thông qua việc tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và tiếp tục theo đuổi thành công mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Quá trình đó không thể không liên quan đến sự phát triển của các doanh nghiệp, và các doanh nghiệp không thể không gắn các hoạt động kinh doanh và phát triển của mình với mục tiêu kinh tế xanh của quốc gia.

Hà Phương Thiện