Ứng dụng công nghệ giảm phát thải, hướng tới mô hình kiểu mẫu về nông nghiệp tuần hoàn lúa gạo

Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao vùng ĐBSCL là cơ hội để nâng cao hiệu quả KTTH trong sản xuất lúa, đồng thời thúc đẩy phát triển KTTH trong toàn bộ chuỗi giá trị lúa gạo trong khu vực. Nếu những nguồn phụ phẩm này được tái chế, tái sử dụng một cách hiệu quả sẽ đem lợi ích cho nông dân và DN, góp phần giảm phát thải khí nhà kính và tạo giá trị gia tăng cho ngành lúa gạo.

Vùng ĐBSCL mỗi năm sản xuất từ 24 - 25 triệu tấn lúa, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu nông hộ. Sản lượng lúa lớn cũng đồng nghĩa với việc khối lượng phụ phẩm từ lúa gạo cũng đến hàng chục triệu tấn rơm rạ, hàng triệu tấn trấu, vỏ trấu. Tuy nhiên, những phụ phẩm từ lúa gạo vẫn chưa được chú trọng đúng cách, vẫn còn lãng phí tài nguyên. Nếu những nguồn phụ phẩm này được tái chế, tái sử dụng một cách hiệu quả sẽ đem lợi ích cho nông dân và DN, góp phần giảm phát thải khí nhà kính và tạo giá trị gia tăng cho ngành lúa gạo.

nong-nghiep-tuan-hoan-lua-gao-1-1718762723.jpg
Vùng ĐBSCL mỗi năm tạo ra khoảng 24 triệu tấn rơm, rạ nhưng ít được thu gom sẽ là nguồn phụ phẩm có giá trị. (Ảnh minh họa)

Biến kho phụ phẩm nông nghiệp thành nguyên liệu

Hiện nay, vùng ĐBSCL mỗi năm đóng góp tới 90% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam và các địa phương trong vùng đang tập trung chủ yếu vào mục tiêu kinh tế, an ninh lương thực mà chưa chú trọng nhiều vấn đề giảm phát thải khí nhà kính. Theo ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT), vùng ĐBSCL mỗi năm tạo ra khoảng 24 triệu tấn rơm rạ nhưng chỉ có 30% rơm rạ nhưng chỉ 30% được thu gom, tương đương hơn 7 triệu tấn, còn 70% số lượng rơm rạ được đốt hoặc vùi vào đồng ruộng. Chính việc này đã gây lãng phí nguồn phế phẩm từ lúa gạo và gây ô nhiễm môi trường, tăng phát thải khí nhà kính.

Ông Lê Thanh Tùng cho biết, nông nghiệp tuần hoàn góp phần tăng thu nhập và giảm phát thải khí nhà kính. Việc tận dụng các nguồn phụ phẩm sẽ nâng cao chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo. Tuy nhiên, để phát triển kinh tế tuần hoàn (KTTH) cần phải xây dựng cơ sở dữ liệu và các địa phương phải xây dựng kế hoạch, phát triển mô hình quản lý rơm rạ theo hướng nông nghiệp tuần hoàn, hướng đến thu gom 100% rơm rạ khỏi đồng ruộng vào năm 2030 và góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam tại COOP 26 về biến đổi khí hậu.

“Cần sử dụng dữ liệu thông tin, công nghệ để hỗ trợ cho nông nghiệp tuần hoàn lúa gạo hiện nay. Những dữ liệu đang có cần phải nhiều hơn, cần đẩy đủ hơn, cần hệ thống hơn và đồng thời phải phổ biến các dữ liệu này đến tất cả danh mục, các cơ quan quản lý địa phương với người nông dân để cùng nhận thức, ý chí phát triển được nông nghiệp tuần hoàn”, ông Tùng nói.

nong-nghiep-tuan-hoan-lua-gao-2-1718762800.jpg
Hiện nay, vùng ĐBSCL mỗi năm đóng góp tới 90% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam và các địa phương trong vùng đang tập trung chủ yếu vào mục tiêu kinh tế, an ninh lương thực mà chưa chú trọng nhiều vấn đề giảm phát thải khí nhà kính. (Ảnh minh họa)

Có thể thấy KTTH đã hình thành trong ngành lúa gạo Việt Nam, tuy nhiên còn nhiều tiềm năng để phát triển. Với khối lượng rơm cả nước trên 40 triệu tấn mỗi năm, nếu được tái chế và tái sử dụng một cách hiệu quả sẽ đem lợi ích to lớn cho nông dân, DN và giảm phát thải khí nhà kính. Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao vùng ĐBSCL là cơ hội để nâng cao hiệu quả KTTH trong sản xuất lúa, đồng thời thúc đẩy phát triển KTTH trong toàn bộ chuỗi giá trị lúa gạo trong khu vực.

Nhận định từ PGS.TS Nguyễn Văn Hùng, Chuyên gia cao cấp của IRRI cho thấy, ngành hàng lúa gạo Việt Nam có nhiều tiềm năng để nâng cao giá trị chuỗi ngành hàng gắn với giảm phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, theo TS Hùng để thực hiện được điều này đòi hỏi phải có những chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp tuần hoàn cho người dân, hợp tác xã về công nghệ, thị trường đầu ra cho sản phẩm.

Theo PGS.TS Nguyễn Văn Hùng, phía IRRI luôn sẵn sàng đồng hành, chia sẻ và cung cấp cơ sở dữ liệu, thiết kế hệ thống và chuỗi giá trị nông nghiệp tuần hoàn. Ngoài ra, cũng sẽ đưa các công nghệ, ứng dụng số và khoa học kỹ thuật, xây dựng các quy trình kỹ thuật, sổ tay hướng dẫn nông nghiệp tuần hoàn cho ngành hàng lúa gạo.

“Kinh tế nông nghiệp tuần hoàn là một phần của Chương trình 1 triệu ha lúa. Một số công nghệ được IRRI và các đối tác làm ra từ máy cuốn rơm, sản xuất phân bón, rơm làm thức ăn cho đang bò sẵn lòng hợp tác, chia sẻ để cùng phát triển mô hình kinh doanh. Về mặt phát triển công nghệ, ngoài việc tạo các liên kết IRRI cũng tiếp cận phát triển chuyên sâu, xây dựng các mô hình kinh doanh dựa trên công nghệ, dựa trên cơ sở dữ liệu mới trở thành các mô hình kinh doanh thành công ở các địa phương riêng biệt, từng hợp tác xã mới nhân rộng được”, PGS.TS Nguyễn Văn Hùng chia sẻ.

Tạo cơ chế thu hút doanh nghiệp tham gia vào chuỗi kinh tế tuần hoàn

Lĩnh vực sản xuất và chế biến lúa gạo thu hút sự quan tâm từ các DN trong và ngoài nước. Các DN mong muốn có môi trường đầu tư thuận lợi với cơ chế khuyến khích, minh bạch và giảm thủ tục hành chính. Ông Phan Văn Tâm, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Phân bón Bình Ðiền cho biết, để khai thác các nguồn phụ phẩm với giá thành thấp và tạo ra sức cạnh tranh, cần phải định hướng và quy hoạch tổng thể cho từng vùng, từng khu vực.

Ngoài ra, cần phải đặc biệt quan tâm đến cơ sở hạ tầng giao thông cho việc vận chuyển nguồn nguyên liệu từ các vùng sản xuất đến các nhà máy chế biến, việc vận chuyển thuận lợi sẽ góp phần giảm giá thành, tạo sức cạnh tranh trên thị trường.

“Trong Đề án này, Bình Điền cũng định hướng và hợp tác với IRRI, các nhà khoa học và một số đơn vị trong vùng ĐBSCL để kết nối các HTX sản xuất rơm rạ, sẽ cung cấp đầu vào cho DN định hướng phát triển phân hữu cơ từ Đề án. Muốn kết nối những HTX để thu gom nguyên liệu, cơ sở hạ tầng của HTX đến những nơi đặt nhà máy phải thuận tiện, chi phí mà vận chuyển đảm bảo thấp nhất để có thể cạnh tranh với những sản phẩm đang nhập khẩu”, ông Tâm thông tin.

nong-nghiep-tuan-hoan-lua-gao-3-1718762701.jpg
Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao vùng ĐBSCL là cơ hội để nâng cao hiệu quả kinh tế tuần hoàn trong sản xuất lúa. (Ảnh minh họa)

Mô hình KTTH là xu thế tất yếu trong sản xuất nông nghiệp hiện nay, việc khai thác sử dụng tốt nguồn rơm rạ trong sản xuất lúa, tránh việc đốt rơm rạ trên đồng ruộng và giảm phát thải khí nhà kính. Bà Phạm Thị Minh Hiếu, Chi Cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Cần Thơ thông tin, qua mô hình KTTH triển khai tại Cần Thơ đã tính toán kỹ lưỡng, nếu canh tác lúa theo cách truyền thống, 1ha người dân thu nhập 86 triệu đồng/ha/năm. Nhưng nếu tận dụng sản phẩm từ rơm rạ để trồng nấm, làm phân hữu cơ, người dân sẽ tăng thu nhập tới 133 triệu đồng/ha/năm.

“Mục tiêu của ngành nông nghiệp Cần Thơ áp dụng nông nghiệp tuần hoàn bằng nhiều giải pháp kỹ thuật, giúp cho nông dân giảm chi phí sản xuất, gia tăng lợi nhuận và bảo vệ môi trường. Cần Thơ mong muốn nhân rộng mô hình KTTH từ rơm tại các vùng sản xuất của Cần Thơ và cả ĐBSCL. Điều này cần có sự chỉ đạo từ Bộ NN&PTNT và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế”, bà Hiếu đề xuất.

Hiện nay, biến đổi khí hậu đang ngày càng rõ rệt và khốc liệt khiến nguồn tài nguyên thiên nhiên đang cạn kiệt. Việc chuyển đổi ngành lúa gạo Việt Nam theo mô hình KTTH là yêu cầu cấp bách trong bối cảnh hiện nay sẽ giúp tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên, giảm thiểu lãng phí, giảm phát thải khí nhà kính và tạo ra giá trị gia tăng cho ngành hàng lúa gạo.

Ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT cho rằng, với khối lượng phụ phẩm lúa gạo khổng lồ hàng năm, Việt Nam hoàn toàn có khả năng sản xuất ra hàng triệu tấn năng lượng sinh khối xanh. Việc này không chỉ giúp giảm áp lực lên các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà còn góp phần bảo vệ môi trường, hạn chế tác động của biến đổi khí hậu.

“Sản xuất giảm phát thải theo KTTH rất có hiệu quả, các địa phương có thể học tập và cùng là sẵn sàng tham gia vào chương trình 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp do Bộ đang triển khai. Với hướng dẫn của Bộ và tính chịu khó của người nông dân, thông qua các HTX hoàn toàn có thể phát triển mở rộng ở ĐBSCL”, Thứ trưởng Trần Thanh Nam tin tưởng.

Với nguồn phụ phẩm dồi dào từ ngành lúa gạo, Việt Nam đứng trước cơ hội lớn để trở thành hình mẫu về KTTH xanh và bền vững. Đây được xem là giải pháp tiềm năng giúp nâng cao giá trị của ngành hàng lúa gạo, đồng thời tạo ra năng lượng sạch, bền vững và là xu hướng tất yếu để phát triển bền vững trong tương lai. Tuy nhiên, để trở thành hình mẫu về KTTH, trước tiên cần phải có những cơ chế, chính sách trong khuyến khích đầu tư, chuyển giao công nghệ cũng như hỗ trợ cho người dân tham gia vào quá trình này./.

Bình Nguyên