Ngân hàng tiếp sức cho khu vực nông thôn

Với mục tiêu xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông thôn mới hiện đại, nhiều chính sách tín dụng đã được ban hành và nhanh chóng đi vào thực tiễn với tính hiệu lực và hiệu quả cao, đặc biệt trong bối cảnh dịch COVID-19. Nhưng với những yếu tố rủi ro đặc thù, khu vực này vẫn đăng gặp khó khăn trong tiếp cận vốn tín dụng.

Trong vòng 10 năm trở lại đây, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn về vốn cho các lĩnh vực nông nghiệp như ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ và Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn với nhiều điểm nổi bật như nâng gấp đôi mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với khách hàng cá nhân, hộ gia đình; bổ sung chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầu mối liên kết, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp; hoàn thiện chính sách xử lý rủi ro đối với khách hàng gặp khó khăn do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng; bổ sung quy định về quản lý dòng tiền liên kết trong sản xuất nông nghiệp, góp phần hạn chế rủi ro tín dụng và khuyến khích tổ chức tín dụng đẩy mạnh cho vay... 

Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản để hướng tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp, góp phần thúc đẩy sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực... giúp lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn trở thành một trong những lĩnh vực ưu tiên trong chính sách tín dụng hiện nay.

nong-thon-17122021-1639709545.jpeg
Nông dân Thừa Thiên-Huế thu hoạch lúa vụ Hè Thu 2019 trên cánh đồng mẫu lớn. Ảnh minh họa: Hồ Cầu /TTXVN

Bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó Vụ trưởng, Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã có các chính sách khuyến khích về mức cho vay không có tài sản bảo đảm, sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, theo mô hình liên kết, chuỗi giá trị, cơ chế xử lý rủi ro, cơ cấu nợ giữ nguyên nhóm nợ, khoanh nợ.

Hệ thống ngân hàng đẩy mạnh triển khai các chương trình tín dụng đặc thù và cho vay để phát triển bền vững nông nghiệp, các mặt hàng nông sản chủ lực như: đóng tàu phục vụ đánh bắt hải sản xa bờ, giảm tổn thất trong nông nghiệp, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tái canh cà phê, hỗ trợ sản xuất, thu mua chế biến lúa gạo, thủy sản, rau quả,...; Đồng thời có chính sách trần lãi suất ngắn hạn bằng VND áp dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn thấp hơn lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường. Mức lãi suất hiện nay là 4,5%/năm.

Theo bà Phạm Thị Thanh Tùng tính đến ngày 19/11/2021, để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp khắc phục khó khăn do ảnh hưởng của dịch COVID-19, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đạt trên 10 triệu tỷ đồng, tăng 9,52% so với cuối năm 2020. Tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên có mức tăng trưởng tốt; trong đó, dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp nông thôn đạt trên 2,5 triệu tỷ đồng với hơn 14 triệu khách hàng, chiếm trên 25,11% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế, tăng 10,21% so với cuối năm 2020 và tăng 34,5% so với thời điểm trước khi ban hành Chỉ thị 12/CT-TTg về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể, dư nợ cho vay trên địa bàn nông thôn đạt 1,92 triệu tỷ đồng, chiếm 76,5% tổng dư nợ nông nghiệp nông thôn. Toàn hệ thống có 78 tổ chức tín dụng tham gia cho vay với dư nợ chiếm 19,6% trong tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế

Tuy đã đạt được những kết quả tích cực, song việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của nông dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Về phía các tổ chức cũng gặp không ít rủi ro khi đầu tư tín dụng ở khu vực nông thôn do đặc thù của lĩnh vực này. 

Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho rằng không chỉ đối với người nghèo mà các trang trại, hợp tác xã và doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn khó tiếp cận vốn vì không có tài sản thế chấp, chưa đáp ứng được điều kiện vay vốn do phương án sản xuất kinh doanh thiếu khả thi; vốn chủ sở hữu và năng lực tài chính còn hạn chế.

Ngoài ra, việc tổ chức sản xuất theo các mô hình liên kết vẫn bộc lộ hạn chế do khả năng hợp tác, liên kết của người dân còn yếu; số lượng mô hình chuỗi nông sản an toàn chưa nhiều; hợp đồng liên kết thiếu chặt chẽ; hiện tượng vi phạm hợp đồng liên kết của người dân, doanh nghiệp đầu mối còn phổ biến, gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng trong việc kiểm soát dòng tiền khi cho vay chuỗi.

Đồng tình với các quan điểm trên, theo PGS, TS. Tô Ngọc Hưng, Hiệu trưởng Đại học Hòa Bình, sản xuất nông nghiệp vẫn luôn là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro nhưng các cơ chế xử lý, phòng ngừa như bảo hiểm trong nông nghiệp chưa được triển khai mạnh mẽ nên đã ảnh hưởng lớn đến năng lực tài chính và khả năng trả nợ ngân hàng của khách hàng vay vốn khi gặp rủi ro trong sản xuất, kinh doanh.

Do đó, PGS, TS. Tô Ngọc Hưng cho rằng thời gian tới, để cải thiện dịch vụ tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn cần đặt mục tiêu ưu tiên tín dụng cho lĩnh vực này trong một khuôn khổ chính sách tổng thể và dài hạn, thay vì tính chất hỗ trợ và bao cấp như trước đây.

“Can thiệp của Chính phủ không nhất thiết là phải cung cấp tín dụng với số lượng nhiều và giá rẻ mà có dưới nhiều hình thức khác. Ví dụ như cung cấp vốn, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, thực hiện các chương trình thí điểm rồi từ đó nhân rộng, hỗ trợ hoạt động của các tổ chức cho vay lưu động ở vùng khó khăn... Những biện pháp can thiệp theo cách tiếp cận cũ như áp đặt lãi suất, hạn mức cho vay có tác động không tích cực đối với sự tăng trưởng của các tổ chức tín dụng và cản trở bước phát triển của thị trường tín dụng nông thôn”, PGS, TS. Tô Ngọc Hưng nói.

Các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng cần tiếp tục đơn giản hóa thủ tục vay vốn của khách hàng, đặc biệt là doanh nghiệp phù hợp với từng đối tượng khách hàng và sản phẩm nông nghiệp được đầu tư tín dụng; tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các khoản cho vay nông nghiệp, nông thôn, bảo đảm đúng mục đích, an toàn và hiệu quả.

Cùng với đó, các tổ chức tín dụng nên xây dựng và triển khai những sản phẩm tín dụng phù hợp với người nông dân và đặc thù sản xuất nông nghiệp; kịp thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, cung ứng các sản phẩm tiện ích ứng dụng công nghệ mới phù hợp với nhu cầu của người dân, doanh nghiệp tại khu vực nông thôn. 

Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú, thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện nghiêm túc quy định về trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, tiết giảm mọi chi phí hoạt động không cần thiết để dành nguồn lực giảm lãi suất vay; thực hiện cam kết đồng thuận giảm lãi suất cho vay lên tới 1%/năm trong các tháng cuối năm như kế hoạch đã đăng ký với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước.

Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước linh hoạt áp dụng các hình thức bảo đảm tiền vay, xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm trên cơ sở quản lý dòng tiền; cải tiến quy trình, thủ tục cho vay, rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay, đa dạng hóa các loại sản phẩm tín dụng để tạo thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn tín dụng./.