Cần phải tư duy tích hợp trong xây dựng hệ thống thủy lợi Đồng bằng sông Cửu Long

“Đề án Phòng chống sụt lún đất, sạt lở, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long” phải giải quyết tổng thể giữa sạt lở, sụt lún, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn và nước sinh hoạt. Với những vấn đề này, phải căn cứ vào điều kiện thực tiễn để giải quyết từng bước, nhưng có những việc phải giải quyết dứt điểm như sạt lở bờ biển Tây, thiếu nước sinh hoạt…
chong-ngap-ung-sat-lo-dbscl-2-1722484993.jpg
Các đại biểu cho ý kiến về Đề án Phòng chống sụt lún đất, sạt lở, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2100 của Viện Khoa học Thuỷ lợi Miền Nam. (Ảnh: Hùng Khang)

Giải quyết tổng thể giữa sạt lở, sụt lún, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn và nước sinh hoạt

Những năm qua, ĐBSCL phải đối mặt với nhiều thách thức như tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng; tác động từ các hoạt động khai thác, sử dụng nước của các quốc gia ở thượng nguồn Mekong dẫn đến nguy cơ thiếu nước ngọt cục bộ, đặc biệt là suy giảm mạnh phù sa về vùng; tình trạng sụt lún, hạ thấp nền đất…

Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp, trong gần 1 năm qua, Thủ tướng Chính phủ đã 2 lần ra văn bản giao Bộ NN&PTNT có giải pháp tổng thể về tình trạng sụt lún, sạt lở, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn và nước sinh hoạt ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ qua 2 văn bản nói trên, Bộ NN&PTNT đã giao Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam khẩn trương xây dựng “Đề án Phòng chống sụt lún đất, sạt lở, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long” (gọi tắt là Đề án).

Tại buổi báo cáo về dự thảo Đề án, PGS.TS Trần Bá Hoằng, Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam, cho biết, ĐBSCL hiện có 94% diện tích có cao độ dưới 2m, rất nhạy cảm với ngập nước, triều cường và xâm nhập mặn. ĐBSCL có địa chất mềm yếu nên rất dễ xói lở.

Trong thời gia qua, có 3 yếu tố đang tác động mạnh tới ĐBSCL là phát triển ở thượng nguồn sông Mekong; biến đổi khí hậu - nước biển dâng; lún sụt, hạ thấp lòng dẫn. Trong đó, phát triển ở thượng nguồn sông Mekong đang góp phần làm gia tăng xâm nhập mặn, gia tăng xói lở bờ biển, thiếu nước ngọt. Biến đổi khí hậu gây ra tình trạng ngập úng và làm gia tăng xâm nhập mặn. Lún sụt, hạ thấp lòng dẫn cũng làm gia tăng xâm nhập mặn, tăng ngập và khó tiêu thoát nước.

chong-ngap-ung-sat-lo-dbscl-1-1722484967.jpg
Sạt lở bờ sông ở Tiền Giang. (Ảnh: Sơn Trang)

Do tác động từ phát triển ở thượng nguồn sông Mekong, dòng chảy mùa lũ ở ĐBSCL đang biến động theo xu thế giảm so với trước đây. Cụ thể, từ năm 2011 trở về trước, cứ khoảng 4 - 5 năm sẽ xuất hiện 1 trận lũ vừa hoặc lớn. Nhưng từ năm 2012 đến nay, lũ nhỏ liên tục xuất hiện và không có đỉnh lũ nào vượt báo động 3. Trong tương lai xa, khoảng 30 - 50 năm tới, số năm xuất hiện lũ lớn sẽ gần như không đáng kể và gia tăng mạnh các năm lũ nhỏ, thậm chí không có lũ.

Năm 2024, ảnh hưởng của xâm nhập mặn làm cho nhiều khu vực tại ĐBSCL xuất hiện các điểm lún đất và sạt lở, nhiều nơi thiếu nước ngọt phục vụ sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp.

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp nhấn mạnh: “Đề án Phòng chống sụt lún đất, sạt lở, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long” phải giải quyết tổng thể giữa sạt lở, sụt lún, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn và nước sinh hoạt. Với những vấn đề này, phải căn cứ vào điều kiện thực tiễn để giải quyết từng bước, nhưng có những việc phải giải quyết dứt điểm như sạt lở bờ biển Tây, thiếu nước sinh hoạt…

Ngoài các giải pháp công trình, các giải pháp phi công trình cũng phải được đưa vào đề án, nhất là chuyển đổi sản xuất nông nghiệp theo quy hoạch và theo nguồn nước. Bên cạnh đó, cần nhấn mạnh việc nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo ở các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của ngành nông nghiệp; đưa ra các giải pháp về khoa học, công nghệ…

Cần phải tư duy tích hợp trong xây dựng hệ thống thủy lợi

Sau khi lắng nghe nội dung tóm lược Đề án Phòng chống sụt lún đất, sạt lở, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2100 của Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam, các đại biểu cho rằng để thực hiện có hiệu quả đề án, tới đây các địa phương cần tiến hành rà soát, thống kê các hộ dân, các khu vực bị thiếu nước sinh hoạt và sản xuất để có biện pháp khắc phục; rà soát cụ thể, chi tiết hộ dân nào đang thiếu nước, vùng nào không thể cấp được nước để có phương án hỗ trợ. Nếu làm tốt công tác đó thì mục tiêu đến năm 2030 không còn hộ dân nào tại khu vực ĐBSCL thiếu nước sinh hoạt có thể thực hiện được.

Nguồn nước ngọt tại ĐBSCL trong tương lai sẽ ngày càng suy giảm về số lượng và chất lượng do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và sự gia tăng sử dụng nước của các quốc gia thượng nguồn. Ðiều này làm tăng nguy cơ thiếu nước ngọt cho sinh hoạt vào mùa khô, đặc biệt là tình hình hạn hán kéo dài, xâm nhập mặn vào sâu tại các cửa sông ở các tỉnh: Bến Tre, Sóc Trăng, Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Long An và Trà Vinh.

chong-ngap-ung-sat-lo-dbscl-3-1722485055.jpg
Cống đập Ba Lai là một trong 9 hạng mục của dự án ngọt hóa Bắc Bến Tre, và là một trong những công trình thủy lợi lớn nhất ĐBSCL. (Ảnh Hùng Khang)

Con số thống kê có hơn 73 ngàn hộ dân tại khu vực này đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước sinh hoạt, chủ yếu tập trung ở các tỉnh ven biển như Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang và Cà Mau. Dự báo tình trạng thiếu nước còn gia tăng trong những năm tiếp theo. Việc nước mặn xâm nhập cũng đang là nguyên nhân gây ra tình trạng thiếu nước ngọt.

"Trong tổng số 13 triệu dân ở nông thôn vùng ĐBSCL có khoảng 8 triệu người sử dụng nước từ công trình cấp nước tập trung, 5 triệu người sử dụng nước quy mô hộ gia đình từ giếng khoan, dụng cụ trữ nước mưa, từ kênh, rạch, ao, hồ. Do đó đảm bảo nguồn nước sạch cho người dân là nhiệm vụ cần được quan tâm giải quyết trong thời gian tới", ông Nguyễn Tất Đại, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Bộ NN&PTNT nhấn mạnh.

Tại buổi làm việc, các đại biểu tập trung đánh giá tình hình, phân tích nguyên nhân; đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp cả trước mắt và lâu dài để khắc phục, phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển vùng ĐBSCL, bảo vệ tính mạng, tài sản, sinh kế của người dân, các công trình, cơ sở kỹ thuật của Nhà nước, thúc đẩy phát triển bền vững ĐBSCL nhanh, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.

chong-ngap-ung-sat-lo-dbscl-4-1722485085.jpg
Ông Đoàn Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Lâm Nghiệp, Bộ NN&PTNT phát biểu tại hội nghị.(Ảnh: Hùng Khang)

Nói về các giải pháp trước mắt, ông Đoàn Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Lâm Nghiệp, Bộ NN&PTNT đưa dẫn chứng từ dự án trồng rừng ngập mặn tại hai tỉnh Thái Bình và Nam Định thời gian qua đã phát huy tính hiệu quả của rừng trong việc lấn biển, bảo vệ đê.

Rừng ngập mặn giúp bảo vệ các khu vực ven biển vững chắc hơn bất cứ công trình bê tông nào trước sức tàn phá của nước mặn và sóng biển; giúp giảm thiểu tới 50% năng lượng tác động của sóng biển, ngăn ngừa nước biển dâng cao, góp phần quan trọng bảo vệ dân cư cũng như hạ tầng cơ sở ven biển.

Do đó Đề án Phòng chống sụt lún đất, sạt lở, xâm nhập mặt tại ĐBSCL cần phải tính toán kỹ, tìm hiểu các dự án trồng rừng ngập mặn đã thành công tại một số địa phương.

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan yêu cầu trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Đề án, Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam cần phải tư duy tích hợp trong xây dựng hệ thống thủy lợi./.

Bình Nguyên