
Nông sản xuất khẩu nhiều biến động những tháng đầu năm
Thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 2 tháng đầu năm 2025 đạt 9,38 tỷ USD, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt 4,89 tỷ USD, tăng 4,5%.
Đáng chú ý, có những mặt hàng nông sản ghi nhận mức tăng trưởng rất mạnh. Cụ thể, tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu cà phê 2 tháng đầu năm 2025 đạt 284 nghìn tấn và đạt giá trị 1,58 tỷ USD, giảm 28,4% về khối lượng nhưng tăng 26,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Giá cà phê xuất khẩu bình quân 2 tháng đầu năm 2025 ước đạt 5574,5 USD/tấn, tăng 76,3% so với cùng kỳ năm 2024. Năm nay, dự kiến xuất khẩu cà phê có thể đạt 6 tỷ USD.
Giá trị xuất khẩu thủy sản 2 tháng đầu năm 2025 đạt 1,42 tỷ USD, tăng 18,6%; giá trị xuất khẩu lâm sản đạt 2,68 tỷ USD, tăng 11,9%. Cùng với đó, khối lượng và giá trị xuất khẩu cao su 2 tháng đầu năm 2025 đạt 280,6 nghìn tấn và 532,9 triệu USD, giảm 5,9% về khối lượng nhưng tăng 24,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu hồ tiêu 2 tháng đầu năm 2025 đạt 28 nghìn tấn và đạt 188,7 triệu USD, giảm 9,4% về khối lượng nhưng tăng 51,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.

Tuy nhiên, tổng giá trị xuất khẩu hàng rau quả 2 tháng đầu năm 2025 đạt 724,5 triệu USD, giảm 11% so với cùng kỳ năm 2024. Bên cạnh đó, tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo 2 tháng đầu năm 2025 đạt 1,1 triệu tấn và 613 triệu USD, tăng 5,9% về khối lượng nhưng giảm 13,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Những tháng đầu năm, nông sản Việt Nam phải đối mặt với không ít khó khăn trong bối cảnh chiến tranh thương mại cũng như các thị trường xuất khẩu chủ lực áp dụng quy định mới như: Trung Quốc siết chặt quy định kiểm dịch đối với sầu riêng; cảnh báo của Liên minh Châu Âu (EU) đối với các sản phẩm nông sản và thực phẩm xuất khẩu của Việt Nam…
Liên quan đến quy định mới của các thị trường, ông Lê Thanh Hòa, Giám đốc Văn phòng Thông báo và Điểm hỏi đáp quốc gia về vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật Việt Nam (SPS Việt Nam) cho rằng, trước mắt cần tăng cường cập nhật thông tin và phổ biến các tiêu chuẩn mới của EU đến người sản xuất gồm: nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp thực hiện đáp ứng đầy đủ các quy định về vệ sinh, an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh của thị trường này.
Theo đó, ngoài sự hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn về thủ tục xuất khẩu, nhãn hàng hóa, chứng nhận an toàn thực phẩm tới các cơ sở sơ chế, chế biến, đóng gói, doanh nghiệp kinh doanh nông sản, thực phẩm xuất khẩu, các đơn vị sản xuất cần giám sát chặt chẽ chuỗi cung ứng, vùng nguyên liệu, logistic để đáp ứng quy định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động, thực vật.
Theo ông Hòa: "Xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 65,2 tỷ USD thì thị trường Liên minh châu Âu đã chiếm đến gần 12% đó là con số rất lớn do vậy chúng ta cần phải duy trì ổn định thị trường này trong thời gian tới. Đặc biệt trong năm 2025 chúng ta phải đáp ứng tốt hơn các yêu cầu cũng như tuân thủ các quy định thì mới tiếp tục duy trì và giữ được thị trường này".
Nông sản Việt Nam cần tiếp tục cải thiện chất lượng sản phẩm, tìm kiếm các thị trường mới
Trong một cuộc trao đổi với báo chí, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho biết: Năm 2025, Chính phủ giao chỉ tiêu cho tăng trưởng nông nghiệp là 4%. Với lĩnh vực trồng trọt chiếm khoảng 43% tổng giá trị toàn ngành nông nghiệp, tăng trưởng lĩnh vực này năm cao nhất đạt con số 2,2% còn thông thường ở mức 1,5-1,8%.
Lĩnh vực chăn nuôi với quy mô 5% GDP và chiếm khoảng 26% tổng giá trị toàn ngành nông nghiệp, tăng trưởng cao nhất lĩnh vực này là 5,92% (năm 2022); thủy sản chiếm 28% trong tổng giá trị toàn ngành nông nghiệp, tăng trưởng từ 3,5 – 3,8%; lâm nghiệp chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng giá trị toàn ngành nông nghiệp nhưng tăng trưởng bình quân ở mức trên dưới 7%. Đây là những dư địa chúng ta cần phải rà soát để tính toán trong cơ cấu ngành hàng cũng như tốc độ tăng trưởng để đảm bảo về đích 4% như mục tiêu Chính phủ đã đặt ra.
Phải khẳng định dư địa, tiềm năng và lợi thế cho xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của chúng ta vẫn còn. Cũng cần nhấn mạnh khoa học công nghệ là giải pháp đầu tiên, vì thế cần thúc đẩy khoa học công nghệ một cách mạnh mẽ và quyết liệt hơn.
Khoa học, công nghệ chiếm 55% giá trị gia tăng của toàn ngành, tuy nhiên, tới đây, khoa học công nghệ phải đưa vào chương trình giống, chương trình canh tác, bảo vệ thực vật, thú y, phòng bệnh, từ đó gắn với kinh tế tuần hoàn, truy xuất được nguồn gốc và minh bạch hóa những sản phẩm xuất khẩu.

Đối với chế biến và chế biến sâu, hiện Việt Nam mới chỉ xuất khẩu bằng “bao” (có nghĩa là xuất thô) trong khi thế giới xuất khẩu bằng “gói” (xuất khẩu sản phẩm tinh), giá trị gia tăng chính là ở chỗ này.
Trong bối cảnh diện tích trồng của chúng ta không tăng thì vấn đề năng suất, chất lượng và vùng nguyên liệu gắn với chế biến sâu, đây chính là dư địa để chúng ta có thể đạt được mục tiêu xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trong năm 2025 và làm tiền đề cho xuất khẩu trong giai đoạn 2026 - 2030.
Nhận định về những khó khăn, thách thức của nông sản xuất khẩu Việt Nam trong năm 2025, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho rằng, mỗi cảnh báo từ các thị trường nhập khẩu đều tác động trực tiếp đến uy tín và thương hiệu nông sản Việt, phản ánh rõ tầm quan trọng của việc tuân thủ quy định và các tiêu chuẩn kỹ thuật. Do đó, doanh nghiệp cần nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề này trong chiến lược phát triển lâu dài của mình.
Trong bối cảnh thế giới biến động, việc không phụ thuộc vào bất kỳ thị trường nào nhưng vẫn tận dụng tốt cơ hội từ các thị trường tiềm năng là điều cần thiết. Để đạt được mục tiêu xuất khẩu và tăng trưởng 4% Chính phủ giao, nông sản Việt Nam cần tiếp tục cải thiện chất lượng sản phẩm, tìm kiếm các thị trường mới và ứng phó linh hoạt với các biến động từ thị trường quốc tế.
Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, để đạt mức tăng trưởng nông nghiệp 4% trong năm 2025, các ngành trụ cột như trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp cần được cơ cấu hợp lý. Đặc biệt, ứng dụng khoa học - công nghệ và thúc đẩy chế biến sâu sẽ là hai yếu tố then chốt. Năm nay, Chính phủ giao mục tiêu cho tăng trưởng nông nghiệp là 4%.
Phân tích từng lĩnh vực cho thấy trồng trọt chiếm 43% trong tổng giá trị của ngành nông nghiệp. Tăng trưởng của ngành trồng trọt có năm đỉnh cao là 2,2%, còn lại thường từ 1,5 - 1,8%. Lĩnh vực chăn nuôi với quy mô chiếm 26% trong tổng GDP toàn ngành nông nghiệp, năm tăng trưởng cao ở mức 5,92% (năm 2022). Lĩnh vực thủy sản chiếm 28% trong tổng GDP ngành nông nghiệp, tăng trưởng từ 3,5 - 3,8%/năm. Lĩnh vực lâm nghiệp chiếm tỷ trọng không lớn, nhưng tăng trưởng hàng năm ở mức trên dưới 7%.
Đây là những dư địa mà chúng ta cần rà soát để tính toán cho cơ cấu từng ngành hàng cần tăng trưởng như thế nào để về đích đạt tăng trưởng toàn ngành 4%. Khoa học - công nghệ quyết định sự đột phá của ngành nông nghiệp. "Chúng ta đã có Nghị quyết 57 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về khoa học - công nghệ, cùng với các chính sách hỗ trợ từ Quốc hội. Việc ứng dụng công nghệ vào quy trình canh tác, bảo vệ thực vật, thú y, gắn với kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi số là xu hướng tất yếu để nâng cao chất lượng và minh bạch hóa sản phẩm xuất khẩu" Thứ trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
Ngoài ra, chế biến sâu là hướng đi chiến lược. "Cần giảm dần tỉ trọng xuất khẩu thô, tăng mạnh sản phẩm tinh chế, nâng cao giá trị gia tăng. Diện tích sản xuất có thể không thay đổi, nhưng năng suất, chất lượng và chế biến sâu sẽ quyết định hiệu quả kinh tế. Đây là dư địa quan trọng để ngành nông nghiệp vươn xa hơn trong năm 2025 và các năm tiếp theo", Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhận định.

Đánh giá về hoạt động xuất khẩu nông sản 2 tháng đầu năm, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng cho biết, tuy thuận lợi và có nhiều dư địa để đẩy mạnh xuất khẩu nhưng những biến động của thị trường trong thời gian tới luôn khó lường. Chính vì vậy, Bộ này sẽ phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Công thương thúc đẩy mở cửa thị trường, đồng thời duy trì tốt những thị trường truyền thống, tránh việc phụ thuộc vào 1 hoặc 2 thị trường nhất định.
Bên cạnh đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đề nghị, các địa phương, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp cần chuẩn bị vùng trồng, vùng nuôi một cách kỹ lưỡng, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc để có vùng nguyên liệu minh mạch, rõ ràng. Mỗi thị trường đều có tiêu chuẩn, quy chuẩn riêng nhưng nếu sản xuất đáp ứng tốt các yêu cầu về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, chắc chắn sẽ luôn tìm thấy cơ hội./.