Ngành tôm cần sản xuất theo hướng an toàn sinh học, giảm phát thải nhằm chuyển đổi xanh bền vững

Theo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, cần phải "chuyển đổi xanh" trên toàn bộ các khâu trong chuỗi theo lộ trình và theo các cấp độ để phát triển ngành tôm ở ĐBSCL một cách bền vững.

Nội dung được thảo luận tại Tọa đàm “Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ phát triển nuôi tôm nước lợ bền vững giảm chi phí sản xuất, giảm phát thải, nâng cao hiệu quả” do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp Sở NN&PTNT tỉnh Bến Tre tổ chức ngày 25/11.

nuoi-tom-giam-phat-thai-1-1732544999.jpg
Tọa đàm “Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ phát triển nuôi tôm nước lợ bền vững giảm chi phí sản xuất, giảm phát thải, nâng cao hiệu quả”.

Nhận diện thách thức đối với ngành tôm Việt Nam trong thời gian qua

Thông tin tại Tọa đàm, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, tính đến tháng 11/2024, tổng diện tích nuôi tôm nước lợ của cả nước khoảng 730.000ha, tổng sản lượng khoảng 1.103 tấn.

Trong 10 tháng đầu năm 2024, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại khoảng 22.269ha (chủ yếu là tôm nước lợ), giảm 11,2% so với cùng kỳ năm trước; xuất hiện 2 loại bệnh là bệnh hoại tử gan tụy và bệnh đốm trắng. Song song đó, thách thức đối với ngành tôm Việt Nam trong thời gian qua là việc phát triển không bền vững, dẫn đến những môi trường nuôi tôm bị ảnh hưởng; tổ chức sản xuất mang tính nhỏ lẻ, chưa bài bản, chi phí đầu vào còn lớn, giá cả bấp bênh…

Trước những thách thức trên, để nghề nuôi tôm ở Việt Nam phát triển bền vững, tạo sản phẩm có giá trị gia tăng cao, cạnh tranh, nâng cao hiệu quả sản xuất thì đòi hỏi sự chung tay hành động của ngành, địa phương, nhà nghiên cứu, người sản xuất và doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm.

Trước mắt, cần có các giải pháp căn cơ, bài bản cho cả chuỗi sản xuất tôm, nhất là việc quy hoạch vùng nuôi, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, phù hợp trong sản xuất giống, nuôi thương phẩm và các khâu trong chuỗi sản xuất tôm theo hướng an toàn sinh học, giảm phát thải carbon, chất thải rắn, bảo vệ môi trường, kiểm soát lây lan của dịch bệnh…

nuoi-tom-giam-phat-thai-3-1732545043.jpg
Tính đến tháng 11/2024, tổng diện tích nuôi tôm nước lợ của cả nước khoảng 730.000ha, tổng sản lượng khoảng 1.103 tấn.(Ảnh minh họa)

Theo Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Bến Tre Nguyễn Văn Buội, dù nghề nuôi tôm có bị ảnh hưởng nhưng vẫn giữ vững tốc độ phát triển khá bền vững. Tại Bến Tre, ước tính đến cuối năm 2024, tổng sản lượng nuôi thủy sản của tỉnh Bến Tre đạt 329.000 tấn. Năng suất mô hình nuôi ngày càng được cải thiện và nâng cao. Trong đó, tôm thẻ chân trắng thâm canh đạt 10-12 tấn/ha/vụ; tôm sú thâm canh 6-8 tấn/ha/vụ; tôm công nghệ cao 60-80tấn/ha; nuôi tôm quảng canh, tôm lúa từ 150-200kg/ha/năm.

“Bến Tre là tỉnh đứng thứ 5 về phát triển nuôi tôm nước lợ của cả nước với hơn 36.000ha và cũng là tỉnh phát triển mạnh nghề nuôi tôm nước lợ từ năm 2000 đến nay, đặc biệt là nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh và gần đây nhất là nuôi tôm công nghệ cao”, ông Buội cho hay.

Cần phải "chuyển đổi xanh" trên toàn bộ các khâu trong chuỗi sản xuất ngành tôm

Tại tọa đàm, nhiều đại biểu cho rằng để nghề nuôi tôm ở Việt Nam (nói chung) và vùng ĐBSCL (nói riêng) phát triển bền vững, tạo sản phẩm có giá trị gia tăng cao, cạnh tranh, nâng cao hiệu quả sản xuất, thì đòi hỏi có sự chung tay hành động của các ngành, địa phương, nhà nghiên cứu, người sản xuất và doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm với các giải pháp căn cơ, bài bản cho cả chuỗi sản xuất tôm, nhất là việc quy hoạch vùng nuôi, nghiên cứu, ứng dụng khoa học-công nghệ tiên tiến, phù hợp trong sản xuất giống, nuôi thương phẩm và các khâu trong chuỗi sản xuất tôm theo hướng an toàn sinh học, giảm phát thải carbon, chất thải rắn, bảo vệ môi trường, kiểm soát lây lan của dịch bệnh; ưu tiên mô hình nuôi công nghệ cao...

Đặc biệt vùng ĐBSCL cần tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng vùng nuôi: Nâng cấp hệ thống kênh mương thuỷ lợi dùng chung hoặc tách biệt hệ thống cấp và thoát nước; Tăng cường hệ thống quan trắc cảnh báo môi trường vùng nuôi; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tổ chức sản xuất đặc biệt nguồn nhân lực trình độ cao trong điều hành, tổ chức sản xuất; phát triển các mô hình HTX và liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm;  Xây dựng và triển khai chương trình truyền thông, phát triển thương hiệu cho con tôm thương phẩm.

Ưu tiên hàng đầu là nghiên cứu và phát triển các giống mới có năng suất cao, khả năng chống chịu tốt, thích ứng với điều kiện khí hậu để nâng cao giá trị. Lựa chọn địa bàn triển khai nằm trong vùng quy hoạch phát triển nuôi tôm để khai thác lợi thế, thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm rủi ro tại các địa phương nhằm hạn chế dịch bệnh, giảm chi phi sản xuất, tăng lợi nhuận cho người nuôi.

nuoi-tom-giam-phat-thai-4-1732544987.jpg
Theo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, cần phải "chuyển đổi xanh" trên toàn bộ các khâu trong chuỗi theo lộ trình và theo các cấp độ để phát triển ngành tôm một cách bền vững. (Ảnh minh họa)

Trong năm 2025, ngành tôm sẽ tiếp tục gặp một số khó khăn. Riêng tôm sú được nuôi và phát triển mạnh trở lại tại Trung Quốc, Việt Nam, Indonesia, Ấn Độ nên sẽ tạo ra sức cạnh tranh lớn trong thời gian tới.

Ngoài ra, một số nước tiêu thụ tôm có chiến lược ưu tiên phát triển thủy sản nội địa nên sẽ tăng rào cản (yêu cầu chất lượng, hình thức sản xuất và truy xuất nguồn gốc) đối với tôm nhập khẩu từ các nước.

Ông Hoàng Văn Hồng, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho rằng: "Thời gian qua, ngành tôm ở Việt Nam phát triển khá mạnh mẽ. Tuy nhiên, gần đây bà con nuôi tôm gặp phải những cái khó khăn, thách thức nhất định. Trong đó, có việc tổ chức sản xuất mang tính nhỏ lẻ, chưa bài bản dẫn đến môi trường nuôi không tốt, chi phí đầu vào còn lớn".

Theo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, cần phải "chuyển đổi xanh" trên toàn bộ các khâu trong chuỗi theo lộ trình và theo các cấp độ để phát triển ngành tôm ở ĐBSCL một cách bền vững. Ngoài ra, cần tăng cường hợp tác giữa hệ thống khuyến nông các địa phương với các tổ chức, doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế theo hình thức hợp tác công tư (PPP) đối với nghề nuôi tôm./.

Bình Nguyên