Gói hỗ trợ lãi suất 2% đang tắc ở đâu?

Đến nay, số tiền hỗ trợ lãi suất mới chỉ đạt khoảng 781 tỷ đồng, trên tổng số tiền hỗ trợ dự kiến là 40.000 tỷ đồng.
goi-ho-tro-lai-suat-2-phao-vang-khong-danh-cho-tat-ca-2-1696912739.jpeg
Gói hỗ trợ lãi suất 2% chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng.

Ngày 11/01/2022, Quốc hội ban hành Nghị quyết 43/2022/QH15 quy định một số chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có gói tín dụng ưu đãi lãi suất 2% với nguồn kinh phí từ ngân sách 40.000 tỷ đồng.

Tiếp đó, ngày 20/5/2022, Chính phủ ban hành Nghị định 31/2022/NĐ-CP về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.

Tuy nhiên đến nay, việc triển khai được đánh giá là khá chậm trễ, chưa đạt yêu cầu.

Theo số liệu cập nhật mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến cuối tháng 8/2023, doanh số hỗ trợ lãi suất (HTLS) đạt hơn 169.000 tỷ đồng, dư nợ HTLS đạt gần 57.000 tỷ đồng, số tiền HTLS lũy kế từ đầu chương trình đạt khoảng 781 tỷ đồng cho hơn 2.100 khách hàng.

“Thực tế triển khai cho thấy, chưa có một chương trình nào được triển khai khẩn trương, quyết liệt như chính sách HTLS theo Nghị quyết 43/2022/QH15 và Nghị định 31/2022/NĐ-CP. Tuy nhiên, kết quả HTLS còn thấp, chưa như kỳ vọng là do một số nguyên nhân đã được nhận diện qua quá trình triển khai thực tế và cũng được các địa phương, doanh nghiệp thừa nhận”, Thống đốc NHNN, bà Nguyễn Thị Hồng cho biết.

Trong đó, một trong những nguyên nhân quan trọng, theo lãnh đạo NHNN, là do khách hàng đủ điều kiện nhưng từ chối nhận HTLS, chủ yếu là do tâm lý e ngại thanh tra, kiểm tra của khách hàng (nhất là các doanh nghiệp), cân nhắc giữa lợi ích từ HTLS 2% và chi phí bỏ ra khi nhận HTLS (theo dõi hồ sơ, chứng từ, tuân thủ các thủ tục hậu kiểm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền).

Ngoài ra, khách hàng cũng lo ngại trong trường hợp sau này nếu bị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định phải thu hồi số tiền HTLS thì rất khó xử lý vì lúc đó doanh nghiệp/khách hàng đã hạch toán lợi nhuận/chia cổ tức cho cổ đông.

“Trên thực tế, một số khách hàng đã được nhận HTLS, song hiện đã chủ động hoàn trả ngân hàng toàn bộ số tiền lãi đã được hỗ trợ”, lãnh đạo NHNN thông tin.

Bên cạnh đó, các NHTM và khách hàng cũng gặp khó khăn trong đánh giá việc đáp ứng quy định “có khả năng phục hồi” tại Nghị quyết 43/2022/QH15 và khoản 4 Điều 3 Nghị định 31/2022/NĐ-CP.

Cụ thể, qua báo cáo và khảo sát thực tế từ NHTM và các khách hàng, bản thân khách hàng mặc dù có khả năng trả nợ, song cũng không dám khẳng định “có khả năng phục hồi” (thường được thể hiện thông qua các tiêu chí định lượng như: doanh thu/sản lượng/lợi nhuận tăng hoặc các tiêu chí định tính như đánh giá diễn biến, chiều hướng kinh doanh của khách hàng) vì đánh giá này là rất khó trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt điều kiện kinh tế thế giới đang có nhiều bất ổn trong khi nền kinh tế nước ta có độ mở lớn, hoạt động của các doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào kinh tế quốc tế.

“Trường hợp khẳng định hoặc đánh giá các tiêu chí doanh thu, sản lượng, lợi nhuận tăng nhưng thực tế do tác động của nhiều yếu tố bất định dẫn tới các chỉ số này không tăng thì các NHTM và khách hàng e ngại sẽ bị các cơ quan thanh tra, kiểm tra sau này đánh giá trục lợi chính sách”, lãnh đạo NHNN cho biết.

Ngoài ra, một số khách hàng có doanh thu/lợi nhuận trong giai đoạn dịch cao hơn hiện tại nên rất khó để đánh giá đáp ứng tiêu chí “phục hồi”.

Nhiều hộ gia đình sản xuất, kinh doanh vay vốn tại các NHTM, tuy nhiên không có đăng ký hộ kinh doanh theo quy định nên không thuộc đối tượng được hỗ trợ (như Agribank có khoản 50% dư nợ khách hàng là hộ sản xuất, kinh doanh không có đăng ký kinh doanh).

Song song đó là tâm lý e ngại của các NHTM khi triển khai thực hiện chính sách này do thực tế hiện vẫn còn một số chương trình HTLS chưa được quyết toán số tiền mà các NHTM đã hỗ trợ lãi suất cho khách hàng.

Bên cạnh đó, NHTM cũng lo ngại trong trường hợp nếu phải thu hồi số tiền HTLS đã hỗ trợ khách hàng nhưng khách hàng đã tất toán khoản vay, không còn quan hệ với NHTM thì khó thu hồi số tiền này.

Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như khách hàng xuất khẩu lựa chọn vay USD để tận dụng lợi thế về lãi suất và nguồn thu bằng ngoại tệ sẽ không thuộc đối tượng được HTLS; khó khăn trong bóc tách chi phí vay vốn đa ngành nghề; khách hàng có dư nợ hiện hữu thuộc ngành được HTLS nhưng lại đang quá hạn nên tạm thời chưa được xem xét HTLS theo quy định,…

Cũng theo lãnh đạo NHNN, trong thời gian đầu triển khai chính sách (năm 2022), tình hình kinh tế - xã hội nói chung và tình hình hoạt động kinh doanh của các đối tượng, ngành, nghề được HTLS nói riêng đã có nhiều biến chuyển so với bối cảnh cơ sở của việc ban hành Nghị quyết 43/2022/QH15 và Nghị định 31/2022/NĐ-CP (theo Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2022: tăng trưởng kinh tế năm 2022 phục hồi nhanh, đạt 8,02%, trong đó, cả 3 khu vực đều phục hồi, phát triển tốt, thu ngân sách nhà nước vượt 27,76% dự toán, xuất khẩu tăng 10,6%...), nhiều doanh nghiệp trong giai đoạn này đã trở lại hoạt động bình thường sau dịch nên nhu cầu hỗ trợ có thể thay đổi so với thời điểm ban hành chính sách.

Đối với các khó khăn, vướng mắc nêu trên, NHNN đã tổng hợp, đánh giá và có nhiều Tờ trình Báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ (từ tháng 11/2022) và đề xuất giải pháp trong thời gian còn lại triển khai chính sách.

Tại Thông báo số 316/TB-VPCP ngày 09/08/2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chỉ đạo NHNN chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục thực hiện quyết liệt và thúc đẩy triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.

Trần Thúy