Doanh nghiệp xuất khẩu EU trước những thách thức và cơ hội từ các chính sách Xanh

Mặc dù có những lợi thế lớn nhưng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU đang đứng trước những thách thức mới đến từ các chính sách Xanh của EU đưa ra những quy định khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu và tiêu dùng theo hướng phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn.

Trên đây là một trong những nội dung được trao đổi tại “Tọa đàm: Kế hoạch của EU về kinh tế tuần hoàn (CEAP) và hệ lụy đối với doanh nghiệp Việt Nam”, do Tạp chí Công Thương tổ chức ngày 27/11, tại Hà Nội.

tieu-chi-xanh-doanh-nghiep-xuat-khau-2-1732759812.jpg
Tọa đàm với chủ đề: “Kế hoạch của EU về kinh tế tuần hoàn (CEAP) và hệ lụy đối với doanh nghiệp Việt Nam”.

Thông tin tại Tọa đàm cho biết, sau 4 năm thực thi, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA) đang là động lực lớn thúc đẩy thương mại song phương giữa Việt Nam và EU.

Mặc dù có những lợi thế lớn nhưng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU đang đứng trước những thách thức mới đến từ các chính sách Xanh của EU đưa ra những quy định khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu và tiêu dùng theo hướng phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn.

Bên cạnh đó, dự báo xu hướng này của EU cũng sẽ được các nước phát triển, các thị trường lớn của hàng hóa Việt Nam xuất khẩu chú trọng, tăng cường siết chặt, tiến tới thiết lập các tiêu chuẩn xanh mới đối với hàng hóa trong thương mại quốc tế. Một trong số những chính sách đó là Kế hoạch hành động nền kinh tế tuần hoàn của EU (CEAP).

Kế hoạch này dự báo sẽ tác động mạnh tới thương mại toàn cầu, nhất là giao thương từ các nước đối với EU, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới cho các nhà sản xuất, xuất khẩu hàng hóa vào EU và các chuỗi cung ứng.

Các doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng những lợi thế của EVFTA

Phát biểu tại Tọa đàm, đại diện Vụ Thị trường châu Âu-châu Mỹ (Bộ Công Thương), nếu như trước khi ký hiệp định EVFTA, trao đổi thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU đạt khoảng gần 49 tỷ USD thì sau 4 năm hiệp định có hiệu lực, kim ngạch trao đổi thương mại hai chiều giữa hai bên đã lên gần 64 tỷ USD, một sự tăng trưởng rất lớn.

Về các mặt hàng xuất khẩu, nhờ các lợi thế về thuế quan của EVFTA, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đều có sự tăng trưởng tốt, bao gồm các mặt hàng chủ lực như: công nghiệp, máy móc thiết bị, các phương tiện vận tải, các nhóm hàng về hóa chất và đặc biệt những nhóm hàng về nông sản, thủy sản...

Ở chiều ngược lại, thông qua EVFTA, Việt Nam đã đẩy mạnh nhập khẩu chủ yếu những nhóm hàng nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước, ví dụ như hóa chất, thức ăn chăn nuôi, phụ liệu, nguyên liệu phục vụ sản xuất trong lĩnh vực dệt may hoặc da giày…

Theo Đại diện Vụ thị trường châu Âu-châu Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng những lợi thế của EVFTA, điều đó thể hiện qua kim ngạch tận dụng C/O mẫu EUR.1 đạt 35% trong năm 2023, tương đương khoảng 15 tỷ USD và có sự tăng trưởng khoảng 26% so với năm 2022.

tieu-chi-xanh-doanh-nghiep-xuat-khau-3-1732759799.jpg
Hàng nông sản Việt Nam muốn giữ được thị trường EU thì người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu cần cập nhật và điều chỉnh quy trình sản xuất. (Ảnh minh họa)

Liên quan tới Kế hoạch nền kinh tế tuần hoàn là một phần của Thỏa thuận xanh châu Âu, đại diện Vụ thị trường châu Âu-châu Mỹ cho biết đây là một chiến lược của EU để giúp khối này giảm phát thải ròng bằng 0 sớm nhất có thể vào năm 2050 và để thực hiện được chiến lược và mục tiêu này thì EU sẽ đưa ra hàng loạt các quy định, trong đó có CEAP với những quy định chi tiết cụ thể đối với từng nhóm hàng, từng lĩnh vực.

Làm rõ hơn, theo đại diện Vụ thị trường châu Âu-châu Mỹ, CEAP sẽ có tác động đến bảy nhóm lĩnh vực chính, gồm: thiết bị điện tử, công nghệ thông tin, nhóm về pin và nhóm về bao bì, nhóm về nhựa, dệt may, da giày và một số lĩnh vực khác.

Nếu những sản phẩm không đáp ứng được những cái tiêu chuẩn của EU như liên quan đến hộ chiếu sản phẩm kỹ thuật số chẳng hạn, có khả năng không thể thâm nhập được vào thị trường EU.

Để đáp ứng được những quy định đó thì các doanh nghiệp sẽ phải đầu tư sản xuất, phải thay đổi quy trình sản xuất, quy trình quản lý; chi phí đầu tư tăng cũng có thể khiến chi phí, giá thành sản phẩm của chúng ta sẽ tăng, sẽ ảnh hưởng đến sức cạnh tranh.

Tuy nhiên, nếu các doanh nghiệp có thể đáp ứng được những tiêu chuẩn như thế thì có thể sẽ tiếp cận được những đối tượng khách hàng mới. Bên cạnh đó, mặc dù chi phí đầu tư sản xuất để thay đổi, để đáp ứng được những tiêu chuẩn châu Âu ban đầu có thể cao, nhưng khi mà các doanh nghiệp đã có được chiến lược đầu tư bài bản, họ sẽ thu được những hiệu suất kinh doanh sản xuất tốt hơn thì cũng sẽ giảm được chi phí về lâu dài.

Những yêu cầu về kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là xu thế không thể đảo ngược

Mặc dù CEAP đặt ra nhiều khó khăn, song các chuyên gia cũng nhìn nhận, đây là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam chuyển đổi và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Liên quan đến tăng trưởng xanh, theo Tiến sỹ Mai Thanh Dung, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách Tài nguyên và Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường), doanh nghiệp nào làm được tốt những quy trình hoặc giải pháp kinh tế tuần hoàn sẽ đạt được hiệu quả trong sản xuất-kinh doanh tốt hơn những doanh nghiệp khác, bởi tiết kiệm được nguyên liệu đầu vào, kéo dài được vòng đời sản phẩm…

Tiến sỹ Mai Thanh Dung cũng chỉ ra những tồn tại nhất là cần nguồn lực về tài chính mạnh mới có thể đầu tư và chuyển đổi công nghệ và sản xuất, trong đó những hạn chế này lại thuộc về đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Mặc dù vậy, những yêu cầu về kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là xu thế không thể đảo ngược, buộc các doanh nghiệp phải tuân thủ để tham gia chuỗi giá trị, nâng cao sức cạnh tranh tại các thị trường khó tính.

tieu-chi-xanh-doanh-nghiep-xuat-khau-1-1732760030.jpg
Các quy định mới của EU vừa đặt ra thách thức nhưng cũng mang lại cơ hội cho doanh nghiệp. (Ảnh minh họa)

Tại tọa đàm, đại diện Vụ thị trường châu Âu-châu Mỹ khuyến nghị các doanh nghiệp cần tự trang bị cho mình thông tin thị trường đầy đủ, đúng. Đơn cử, ngoài CEAP thì EU cũng ban hành một loạt các quy định khác, trong đó có Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của EU (gọi tắt là CBAM)…, song CBAM hiện giờ chỉ áp dụng đến một số lĩnh vực phát thải lớn trong lĩnh vực công nghiệp như xi măng, sắt, thép… nhưng sau này có thể mở rộng ra những lĩnh vực khác.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần phải có một chiến lược cụ thể, chi tiết, bởi bản thân doanh nghiệp mới hiểu được họ có những năng lực sản xuất như thế nào? những nhóm sản phẩm gì, phù hợp với xu hướng tiêu dùng của thị trường bây giờ hay không? từ đó mới vạch ra được chiến lược cụ thể.

“Hiện giờ có rất nhiều cơ quan, tổ chức, ngay cả quốc tế hay trong nước, những tổ chức cung cấp những hỗ trợ các doanh nghiệp đạt những chứng chứng chỉ bảo vệ về môi trường, họ cũng sẵn sàng hỗ trợ, hoặc những tổ chức quốc tế như Phái đoàn Liên minh châu Âu hay EuroCham cũng thường xuyên phối hợp với Bộ Công Thương để hỗ trợ các doanh nghiệp vạch ra được chiến lược cụ thể của mình để thâm nhập vào được thị trường châu Âu”, đại diện Vụ thị trường châu Âu-châu Mỹ cho hay.

Theo các chuyên gia, việc sớm triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ và việc chuyển đổi sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thích ứng với Kế hoạch hành động về kinh tế tuần hoàn của EU không chỉ giúp doanh nghiệp giữ vững thị phần mà còn tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường EU, sau đó mở rộng sang các thị trường lớn, trọng điểm khác.

Vì vậy, các cơ quan quản lý cần phải hành động càng sớm càng tốt, có những hướng dẫn thống nhất và đánh giá phù hợp, có những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp cụ thể, để hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam không đánh mất lợi thế từ Hiệp định EVFTA và bị loại khỏi chuỗi giá trị toàn cầu.

Về phần mình, các doanh nghiệp cần phải chủ động thay đổi tư duy, chủ động chuyển đổi sản xuất theo hướng tuần hoàn, bền vững. Thích ứng tốt với Chiến lược Thỏa thuận Xanh châu Âu nói chung và Kế hoạch hành động về kinh tế tuần hoàn của EU (CEAP) giúp doanh nghiệp tận dụng tối đa những lợi ích mà EVFTA mang lại./.

Sau 4 năm hiệp định có hiệu lực, kim ngạch trao đổi thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU có sự tăng trưởng rất lớn. Về các mặt hàng xuất khẩu sang EU, nhờ lợi thế cạnh tranh về thuế quan của EVFTA, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đều có sự tăng trưởng tốt. Trong đó có thể kể đến các nhóm hàng về công nghiệp như máy móc thiết bị, các phương tiện vận tải, các nhóm hàng về hóa chất và đặc biệt những nhóm hàng về nông sản, thủy sản cũng đạt được sự tăng trưởng cao.

Về đầu tư, nhờ EVFTA, EU đã trở thành nhà đầu tư đứng thứ sáu có vốn FDI đầu tư nhiều vào Việt Nam. Các doanh nghiệp châu Âu hiện đầu tư vào khoảng 2.500 dự án với tổng số vốn đăng ký đâu đó khoảng 28 tỷ USD. Đặc biệt, EVFTA không chỉ tạo điều kiện thu hút những nhà đầu tư của châu Âu mà còn cả những nhà đầu tư ngoài châu Âu đến Việt Nam, tận dụng hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU để đưa những hàng hóa sản xuất của nhà máy của họ tại Việt Nam sang thị trường châu Âu.

Trọng Bình