Ngày 1/4/2024, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã ký Quyết định 262/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII. Theo đó, tiếp tục đẩy mạnh phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, đồng thời khuyến khích thu hút đầu tư các dự án chuyển đổi năng lượng.
Thủy điện vẫn còn nhiều dư địa để phát triển
Theo Quy hoạch Điện VIII, định hướng tới năm 2030, tổng công suất các nguồn thủy điện, bao gồm cả thủy điện nhỏ dự kiến đạt 29.346 MW, sản xuất 101,7 tỷ kWh; đến năm 2050, tổng công suất nguồn thủy điện dự kiến đạt hơn 36.000 MW, sản xuất hơn 114 tỷ kWh/năm.
Các nhà máy thủy điện đóng vai trò quan trọng trong hệ thống điện quốc gia, ngoài việc sản xuất điện năng, còn tích cực tham gia chống lũ, cung cấp nước cho hạ du phục vụ sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và cấp nước sinh hoạt. Tổng công suất nguồn thủy điện tính đến cuối năm 2023 là 23.595 MW.
Dung tích chống lũ của các hồ thủy điện của cả nước đạt 15,8 tỷ m3; trong đó, phía Bắc là 15 tỷ m3. Với vai trò đó, các hồ chứa, đặc biệt khu vực phía Bắc được yêu cầu tích nước với dung tích hữu ích đa số trên 90% và không nhỏ hơn 70% vào thời điểm tháng 11 hàng năm - đầu mùa khô.
Riêng đối với miền Bắc, nguồn thủy điện chiếm tỷ trọng 43,6% trong tổng số nguồn điện khu vực. Do vậy, nếu để thiếu nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc đảm bảo cung ứng điện cho vùng này. Trong khi nguồn điện từ mặt trời và gió tăng mạnh, thì vai trò của thủy điện càng trở nên quan trọng và không thể thay thế trong cải thiện chế độ làm việc của hệ thống điện…
Theo các chuyên gia năng lượng, với nguồn thủy điện dồi dào, Việt Nam có thể tiếp tục khai thác tối đa với tổng công suất đạt từ 30.000 – 38.000 MW và điện năng có thể khai thác lên đến 120 tỷ kWh/năm. Đây là nguồn công cụ hoàn hảo, đáng tin cậy do khả năng phát điện linh hoạt.
Theo TS. Nguyễn Huy Hoạch, chuyên gia năng lượng, với chi phí vận hành thấp, các nhà máy thủy điện là nguồn linh hoạt, hợp lý nhất hiện nay trong hệ thống điện Việt Nam. Đặc biệt, với các công nghệ lưu trữ như thủy điện tích năng và pin lưu trữ trong tương lai sẽ bổ sung, hỗ trợ nhau trong hệ thống điện.
Trong Quy hoạch điện VIII, giai đoạn 2021-2023 sẽ tiếp tục xây dựng 13 công trình thủy điện đã được quy hoạch và tiếp tục nghiên cứu phát triển nhà máy thủy điện lòng sông. Đối với các con sông có độ dốc không lớn, có thể phát triển loại hình nhà máy thủy điện lòng sông với cột nước thấp. Tuy nhiên, hiện các nhà máy thủy điện cột nước thấp chưa được triển khai xây dựng nhiều, đây có thể xem là tiềm năng để tiếp tục khai thác trong tương lai.
Ông Hà Đăng Sơn, Giám đốc Trung tâm Năng lượng và Phát triển xanh cho rằng, việc đầu tư mở rộng một số nhà máy thủy điện đang vận hành sẽ cho phép cung cấp bổ sung công suất phủ đỉnh cho hệ thống điện, đạt mức hợp lý trong việc sử dụng tài nguyên nước của con sông.
Mặt khác, các nhà máy thủy điện khi được mở rộng sẽ cung cấp thêm một phần năng lượng đáng kể và nâng cao chất lượng điện cho hệ thống. Cùng đó, giảm bớt cường độ làm việc của các tổ máy hiện hữu, qua đó kéo dài tuổi thọ của thiết bị, tiết kiệm chi phí bảo dưỡng, sửa chữa.
Cũng theo các chuyên gia đối với tác động môi trường, các dự án thủy điện mở rộng không làm tăng tác động xấu đến môi trường do không thay đổi hiện trạng quy mô đập dâng và phạm vi hồ chứa.
Hiện nay, EVN đã mở rộng Nhà máy Thủy điện Thác Mơ thêm 75 MW (đưa vào vận hành năm 2017) và Thủy điện Đa Nhim mở rộng thêm 80 MW (đưa vào vận hành năm 2018). Còn với dự án Thủy điện Ialy mở rộng thêm 360 MW đang thi công, phấn đấu năm nay đưa vào vận hành và dự án Thủy điện Hòa Bình mở rộng thêm 480 MW đang nỗ lực phấn đấu với mức cao nhất nhằm đưa công trình vào vận hành trong năm 2025.
Nguồn thủy năng dồi dào từ các hồ thủy lợi
Theo chia sẻ của TS. Nguyễn Huy Hoạch, với 41 nhà máy thủy điện lớn có quy mô công suất từ 100 MW trở lên với tổng công suất lắp đặt là 14.330 MW có khả năng mở rộng, tiềm năng còn lại là rất lớn.
Việc đầu tư mở rộng một số nhà máy thủy điện sẽ cho phép cung cấp bổ sung công suất phủ đỉnh cho hệ thống điện, đạt mức hợp lý trong việc sử dụng tài nguyên năng lượng tái tạo hiện có của Việt Nam.
Trên thế giới hiện nay, nhiều nước đang tận dụng nguồn nước sẵn có từ các hồ thủy lợi để bố trí nhà máy thủy điện phía hạ lưu đập nhằm khai thác triệt để nguồn thủy năng nhân tạo này.
Cả nước có hơn 7.000 đập, hồ chứa thủy lợi đang vận hành, với tổng dung tích trữ khoảng 14,5 tỷ m3, tạo nguồn nước nông nghiệp, sinh hoạt, công nghiệp... Đây cũng là lợi thế lớn nếu Việt Nam có thể tận dụng khai thác, xây dựng các nhà máy thủy điện sau đập từ các hồ thủy lợi hiện đang vận hành.
TS Nguyễn Huy Hoạch cho rằng, cần khảo sát tất cả các hồ thủy lợi, xác định những hồ thủy lợi nào có thể xây dựng các nhà máy thủy điện phía sau đập dâng nhằm tăng thêm nguồn điện linh hoạt cho hệ thống.
Với thủy điện tích năng, ông Nguyễn Huy Hoạch cũng cho biết thêm, các dự án này không làm tăng thêm sản lượng điện mà nhiệm vụ chính là làm giảm sự chênh lệch biểu đồ phụ tải bằng việc huy động công suất bơm tích nước ở giờ thấp điểm và phát điện ở giờ cao điểm. Đây cũng là loại hình được sử dụng phổ biến trên thế giới.
Theo đánh giá của vị chuyên gia này, tiềm năng khai thác thủy điện tích năng của Việt Nam có 9 địa điểm có thể xây dựng, khai thác với tổng công suất 12.500 MW. Công trình Thủy điện tích năng Bác Ái công suất 1.200 MW là nhà máy đầu tiên đã được khởi công xây dựng đầu năm 2020 và dự kiến hoàn thành vào năm 2028.
Trong Quy hoạch điện VIII, đến năm 2030 sẽ có 2.700 MW công suất từ thủy điện tích năng, với hệ thống pin lưu trữ, công suất sẽ tăng lên 39.700 MW vào năm 2050…
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu các giải pháp điều tiết phân phối, sử dụng nước hợp lý, linh hoạt với thời tiết cho thủy điện bằng các kế hoạch điều phối theo mùa, hay cả năm, hoặc nhiều năm cho các hồ chứa lớn. Đồng thời, tăng đầu tư cho hệ thống quan trắc hiện đại để liên tục cập nhật được tình hình thủy văn, thời tiết, nguồn nước trên các sông, hồ chứa, hiện trạng khai thác sử dụng nước của các công trình ở thượng nguồn. Điều này giúp phân bổ hợp lý, cân đối giữa nguồn nước để phát điện và cấp nước cho sản xuất, sinh hoạt.
Theo Quy hoạch tài nguyên nước quốc gia (đến năm 2030), tổng lượng nước dự báo đạt hơn 940 tỷ m3, tăng khoảng 2% so với hiện tại. Nguồn nước hoàn toàn đủ cung cấp, song các chuyên gia cho rằng, việc xây dựng các giải pháp phù hợp để tăng cường hiệu quả vận hành các nhà máy thủy điện cũng như cân đối giữa nguồn nước cho sản xuất, sinh hoạt và đảm bảo an ninh năng lượng là rất cần thiết trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng khó lường.
Với tỷ trọng năng lượng tái tạo được đưa vào ngày càng lớn nhằm thực hiện mục tiêu giảm phát thải, thì việc khai thác tối đa và hiệu quả các loại hình thủy điện là giải pháp được nhiều chuyên gia đánh giá có thể giúp dự phòng công suất phát, ổn định hệ thống, điều chỉnh tần số. Đây cũng là công cụ giúp điều độ hệ thống điện quốc gia vận hành ổn định, an toàn tin cậy./.