Ngày 30/7/2024, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Cơ quan Văn phòng Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn (NN & PTNT) đã tổ chức gặp gỡ các Hiệp hội, ngành hàng và các cơ quan báo chí để thông tin về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển ngành nông nghiệp, nông thôn 6 tháng đầu năm và triển khai những nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2024.
Kết quả thực hiện của ngành nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2024
Theo báo cáo của Bộ NN & PTNT, các lĩnh vực sản xuất, tiêu thụ nông lâm thủy sản, công tác đầu tư xây dựng cơ bản đều được những kết quả khả quan. Trong đó:
Các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản đạt được những con số nổi bật.
Trồng trọt
Sản xuất lúa: Cả nước gieo cấy được 5,03 triệu ha, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước; thu hoạch 3,48 triệu ha, tăng 0,5%; năng suất bình quân 67,1 tạ/ha, tăng 0,7 tạ/ha; sản lượng trên diện tích đã thu hoạch 23,3 triệu tấn, tăng 1,6% (trong đó vụ Đông Xuân 20,3 triệu tấn, tăng 0,7%).
Cây ăn quả: Các cây chủ lực sản lượng tăng, như: Sầu riêng 487,7 nghìn tấn, tăng 20,3%; Xoài 629,4 nghìn tấn, tăng 2,3%; Cam 519,4 nghìn tấn, tăng 2,4%; Quýt 65,9 nghìn tấn, tăng 2,2%; Nhãn 199,6 nghìn tấn, tăng 2,9%. Một số giảm như: Vải 134,3 nghìn tấn, giảm 7,3%; Nho 14,6 nghìn tấn, giảm 7,6%; Thanh long 581,1 nghìn tấn, giảm 1,9%; Chôm chôm 186 nghìn tấn, giảm 1%.
“Hiện tượng “được mùa mất giá” cơ bản không xảy ra trong 6 tháng đầu năm nay. Tuy nhiên, sự phát triển quá nhanh, không theo định hướng và thiếu kiểm soát chất lượng sản phẩm vẫn là những điều mà người nông dân cần phải được lưu tâm và tránh tình trạng “được mùa mất giá”, đòi hỏi nông sản Việt Nam phải tiếp tục nâng cao chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời việc phát triển phải bảo đảm theo quy hoạch, định hướng, cập nhật kịp thời những yêu cầu kỹ thuật, cũng như nắm bắt đầy đủ thông tin, nhu cầu thị trường tiêu thụ sản phẩm”, ông Lê Thanh Tùng - Phó Cục trưởng Cục trồng trọt (Bộ NN & PTNT) chia sẻ.
Chăn nuôi: Trước nguy cơ dịch bệnh gia súc, gia cầm (đặc biệt là dịch tả lợn Châu Phi), Bộ NN&PTNT đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện số 58/CĐ-TTg ngày 16/6/2024 về việc tập trung triển khai đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả các giải pháp phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm. Bộ đã tăng cường chỉ đạo các địa phương ngăn chặn, phát hiện, xử lý các trường hợp vận chuyển, buôn bán giống vật nuôi, sản phẩm giống vật nuôi nhập lậu, không rõ nguồn gốc, xuất xứ.
Nhờ đó, chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển tương đối ổn định: Đàn lợn ước tăng 2,9%; sản lượng thịt hơi 2,54 triệu tấn, tăng 5,1%2. Đàn gia cầm ước tăng 2,3%; sản lượng thịt hơi 1,21 triệu tấn, tăng 4,9% và trứng gần 10,1 tỷ quả, tăng 5,1%. Đàn trâu ước giảm 3,9%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 62,1 nghìn tấn. Đàn bò ước giảm 0,9%; sản lượng thịt 255,9 nghìn tấn, tăng 1,1%; sản lượng sữa 643,7 nghìn tấn, tăng 5,5%.
Lâm nghiệp: Cả nước chuẩn bị 593 triệu cây giống các loại phục vụ trồng rừng; diện tích rừng trồng mới tập trung 125,5 nghìn ha, tăng 1,2%; trồng phân tán 44,6 triệu cây, tăng 2,9%. Bên cạnh đó, nâng cao năng suất, chất lượng rừng, chú trọng quản lý giống (tỷ lệ diện tích rừng trồng từ nguồn giống có kiểm soát chất lượng đạt 85%), trồng rừng theo hướng thâm canh, chuyển hóa rừng kinh doanh gỗ nhỏ sang gỗ lớn. 6 tháng đầu năm, sản lượng gỗ khai thác rừng trồng tập trung 9,93 triệu m3, tăng 6,3%3.
Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc phòng cháy chữa cháy tại các vùng trọng điểm có nguy cơ cao như: Tây Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ. Cả nước phát hiện 3.873 vụ vi phạm, giảm 583 vụ. Rừng bị tác động 1.163,7 ha, giảm 4%, trong đó bị cháy 683,9 ha, tăng 26% và bị phá 481,4 ha, giảm 23%.
Tổng số tiền thu từ dịch vụ môi trường rừng 1.521,16 tỷ đồng (đạt 47,5% kế hoạch năm); lũy kế đến nay diện tích rừng có chứng chỉ quản lý rừng bền vững (FSC) 506.934 ha (vượt 1,39% so với mục tiêu đến năm 2025).
Thủy sản: Tình hình thời tiết tương đối thuận lợi cho cả nuôi trồng và khai thác thủy sản. Tổng sản lượng thủy sản đạt 4,38 triệu tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm 2023; trong đó: Khai thác 1,95 triệu tấn, tăng 1% (khai thác biển 1,86 triệu tấn, tăng 0,9%); Nuôi trồng 2,43 triệu tấn, tăng 4,1% (cá tra 831,8 nghìn tấn, tăng 5,4%; tôm sú 122,1 nghìn tấn, tăng 2,3%; tôm thẻ 332,7 nghìn tấn, tăng 5,6%).
Tiêu thụ nông lâm thủy sản
Đối với thị trường nước ngoài: Tập trung triển khai các Đề án thúc đẩy xuất khẩu nông, lâm, thủy sản sang các thị trường trọng điểm đã được phê duyệt từ cuối năm 2023 (Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU), mở cửa các thị trường mới, còn nhiều tiềm năng như: Các nước Hồi giáo Halal, Trung Đông, Châu Phi. Nhờ vậy, thị trường tiêu thụ sản phẩm được duy trì và mở rộng, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tiếp tục duy trì đà tăng trưởng cao. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 6 tháng đầu năm đạt 29,2 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, nhóm nông sản chính 15,76 tỷ USD, tăng 24,4%; lâm sản chính 7,95 tỷ USD, tăng 21,2%; thuỷ sản 4,36 tỷ USD, tăng 4,9%; sản phẩm chăn nuôi 240 triệu USD, tăng 3,8%. Riêng đầu vào sản xuất 904 triệu USD, giảm 1,8% và muối 2,3 triệu USD, giảm 1,7%.
Ông Lê Viết Bình - Phó Chánh Văn phòng Bộ NN & PTNT cho biết: “Đóng góp vào kết quả đó, có 7 sản phẩm, nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD gồm cà phê, cao su, gạo, rau quả, hạt điều, tôm, sản phẩm gỗ; trong đó gạo và hạt điều là 2 sản phẩm tăng cả khối lượng và giá trị xuất khẩu: Gạo 4,68 triệu tấn (tăng 10,4%), giá trị 2,98 tỷ USD (tăng 32%); hạt điều 350 nghìn tấn (tăng 24,9%), giá trị 1,92 tỷ USD (tăng 17,4%); riêng cà phê tuy giảm về khối lượng (đạt 902 nghìn tấn, giảm 10,5%), nhưng nhờ giá xuất khẩu bình quân tăng 50,4% nên giá trị xuất khẩu đạt 3,22 tỷ USD (tăng 34,6%)”.
Về thị trường xuất khẩu: Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản tiếp tục là 3 thị trường xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản lớn nhất của Việt Nam; giá trị xuất khẩu sang Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng 20,7%, tăng 20,8%; Trung Quốc chiếm 20,2%, tăng 9,5% và Nhật Bản chiếm 6,7%, tăng 5%.
“Tổng kim ngạch nhập khẩu Nông, lâm, thủy sản khoảng 20, 92 tỷ USD. Thặng dư thương mại toàn Ngành khoảng 8,28 tỷ USD, tăng 62,4%. Trong đó có 5 mặt hàng có thặng dư thương mại cao nhất gồm: Gỗ và sản phẩm gỗ 6,16 tỷ USD (tăng 22,5%); cà phê 3,14 tỷ USD (tăng 36,2%); rau quả 2,42 tỷ USD (tăng 35,3%); gạo 2,31 tỷ USD (tăng 27%); tôm 1,43 tỷ USD (tăng 13,3%). Năm mặt hàng thâm hụt thương mại cao nhất gồm: Thức ăn gia súc và nguyên liệu 2,13 tỷ USD (tăng 17,5%); bông các loại 1,5 tỷ USD (tăng 9%); chế phẩm từ sản phẩm trồng trọt 1,51 tỷ USD (tăng 7,2%); ngô 1,17 tỷ USD (giảm 2,2%); lúa mì 828 triệu USD (giảm 3,6%)”, ông Lê Viết Bình cho biết thêm.
Công tác đầu tư xây dựng cơ bản Tiếp tục thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng về việc giải ngân vốn đầu tư công năm 2024; Bộ NN & PTNT đã yêu cầu lập phương án chi tiết để thực hiện, giải ngân số vốn kế hoạch năm 2024 được giao theo từng tháng, từng quý với mục tiêu giải ngân tối đa vốn. Năm 2024, Bộ NN & PTNT được giao 9.935,3 tỷ đồng (vốn trong nước 8.428,7 tỷ đồng, vốn ODA 1.506,6 tỷ đồng). Đến hết ngày 30/6/2024, giải ngân 4.667,5 tỷ đồng, đạt 47% .
“Trong bối cảnh thuận lợi đan xen khó khăn, Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn cùng toàn ngành nông nghiệp đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai các giải pháp phát triển sản xuất, ứng phó với biến động thị trường, thời tiết, dịch bệnh; xúc tiến thương mại, mở cửa thị trường nhằm đẩy mạnh tiêu thụ nông sản. Nhờ vậy, ngành nông nghiệp đã duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao, khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế; năng suất, sản lượng nhiều sản phẩm chủ lực tăng, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP của cả nước”, ông Lê Viết Bình nhấn mạnh.
6 nhiệm vụ, giải pháp trong 6 tháng cuối năm của ngành nông nghiệp
“Từ những kết quả đạt được trong 6 tháng đầu năm, trên cơ sở dự báo những khó khăn, thách thức và thuận lợi, cơ hội đối với ngành nông nghiệp, nông thôn trong 6 tháng cuối năm; để hoàn thành cao nhất các mục tiêu đã đề ra, cần tập trung thực hiện 6 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu”, ông Lê Viết Bình chia sẻ.
Theo đó, 6 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong 6 tháng cuối năm 2024 bao gồm:
Trồng trọt: Chỉ đạo sản xuất lúa vụ Hè Thu, vụ Thu Đông và vụ Mùa phù hợp với diễn biến thời tiết và thị trường. Theo dõi sát sản xuất các cây công nghiệp, cây ăn quả, đặc biệt đối với cây ăn quả chủ lực (như thanh long, nhãn, sầu riêng, xoài, chôm chôm ở Đồng bằng sông Cửu Long) để có chỉ đạo rải vụ phù hợp, tăng tỷ lệ sản phẩm có chứng nhận (an toàn, GAP).
Chăn nuôi: Thực hiện các biện pháp kiểm soát dịch bệnh trên gia súc, gia cầm theo chỉ đạo tại Công điện số 58/CĐ-TTg ngày 16/6/2024 của Thủ tướng Chính phủ (đặc biệt là các bệnh dịch tả lợn Châu Phi, cúm gia cầm, viêm da nổi cục). Tổ chức thực hiện các biện pháp kiểm soát chặt chẽ các hoạt động buôn bán, vận chuyển gia súc, gia cầm và các sản phẩm liên quan, nhất là tại các cửa khẩu, đường mòn, lối mở khu vực biên giới.
Thủy sản: Tập trung chỉ đạo, đôn đốc thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 10/4/2024 của Ban Bí thư và chương trình hành động, Kế hoạch của Chính phủ số 52/NQ-CP ngày 22/4/2024 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chống khai thác IUU và phát triển bền vững ngành thuỷ sản; chuẩn bị làm việc với đoàn thanh tra của EC.
Phát triển mạnh thị trường, tháo gỡ các rào cản, tạo thuận lợi cho tiêu thụ nông lâm thủy sản: Tiếp tục phối hợp với các Đại sứ quán, Tham tán thương mại, Tham tán nông nghiệp thu thập và cung cấp thông tin, thị hiếu, nhu cầu, cập nhật các chính sách, quy định cho cộng đồng doanh nghiệp, các địa phương; hỗ trợ, kết nối doanh nghiệp tham gia xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm đã được mở cửa, xuất khẩu chính ngạch gắn liền với các hoạt động ngoại giao vào các thị trường lớn và khai thác hiệu quả các thị trường tiềm năng.
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công: Nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý đầu tư và đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công năm 2024, tạo động lực tăng trưởng ngành. Rà soát, điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021 - 2025 theo quy định. Tổ chức họp giao ban xây dựng cơ bản, kiểm tra, giám sát để kịp thời nhận diện vướng mắc của từng dự án, chủ đầu tư; đồng thời có giải pháp cụ thể tháo gỡ, đặc biệt là công tác đền bù giải phóng mặt bằng. Phối hợp tháo gỡ kịp thời các vướng mắc về thủ tục liên quan đến việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng, đất lúa ở các dự án đầu tư công. Điều chỉnh linh hoạt, kịp thời vốn kế hoạch giữa các dự án đảm bảo đáp ứng khả năng giải ngân cao nhất của từng dự án.
Công tác thủy lợi và phòng chống thiên tai: Tổ chức theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình thời tiết, nguồn nước, khí tượng thủy văn để triển khai quyết liệt các giải pháp cấp bách phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, không để thiếu nước cho sinh hoạt và ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp. Tổ chức trực ban, theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết, diễn biến của thiên tai, tăng cường kiểm tra, đôn đốc bảo vệ an toàn cho hệ thống đê điều, hồ đập xung yếu; Sẵn sàng các phương án, kịch bản ứng phó với lũ lớn, lũ đặc biệt lớn, tình huống bất lợi trên diện rộng. Thường trực, kiểm tra, theo dõi sự cố đê điều, hướng dẫn, đề xuất biện pháp xử lý đối với hệ thống đê điều từ cấp III trở lên trong mùa mưa, bão./.