Hiện nay, mặc dù đã thống nhất sẽ trả lương cho người lao động vào thời gian nhất định. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy rất nhiều công ty, doanh nghiệp chậm trả lương, nợ lương người lao động do nhiều yếu tố khác nhau. Những trường hợp đó sẽ được giải quyết cụ thể như sau:
Nguyên tắc trả lương cho người lao động
Tại khoản 1, 2, Điều 94 Bộ luật Lao động 2019 quy định về nguyên tắc trả lương:
1. Người sử dụng lao động phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho người lao động. Trường hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp.
2. Người sử dụng lao động không được hạn chế hoặc can thiệp vào quyền tự quyết chi tiêu lương của người lao động; không được ép buộc người lao động chi tiêu lương vào việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của người sử dụng lao động hoặc của đơn vị khác mà người sử dụng lao động chỉ định.
Hình thức trả lương cho người lao động
Tại điều 96, Bộ luật Lao động 2019 quy định về hình thức trả lương:
1. Người sử dụng lao động và người lao động thỏa thuận về hình thức trả lương theo thời gian, sản phẩm hoặc khoán.
2. Lương được trả bằng tiền mặt hoặc trả qua tài khoản cá nhân của người lao động được mở tại ngân hàng.
Trường hợp trả lương qua tài khoản cá nhân của người lao động được mở tại ngân hàng thì người sử dụng lao động phải trả các loại phí liên quan đến việc mở tài khoản và chuyển tiền lương.
Kỳ hạn trả lương và thời gian nợ lương tối đa với người lao động
Điều 97, Bộ luật Lao động quy định về kỳ hạn trả lương và thời gian nợ lương tối đa:
1. Người lao động hưởng lương theo giờ, ngày, tuần thì được trả lương sau giờ, ngày, tuần làm việc hoặc được trả gộp do hai bên thỏa thuận nhưng không quá 15 ngày phải được trả gộp một lần.
2. Người lao động hưởng lương theo tháng được trả một tháng một lần hoặc nửa tháng một lần. Thời điểm trả lương do hai bên thỏa thuận và phải được ấn định vào một thời điểm có tính chu kỳ.
3. Người lao động hưởng lương theo sản phẩm, theo khoán được trả lương theo thỏa thuận của hai bên; nếu công việc phải làm trong nhiều tháng thì hằng tháng được tạm ứng tiền lương theo khối lượng công việc đã làm trong tháng.
4. Trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì không được chậm quá 30 ngày; nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi người sử dụng lao động mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả lương.
Bồi thường khi doanh nghiệp chậm trả lương cho người lao động
Tại khoản 4, Điều 97, Bộ luật Lao động 2019 cũng quy định trong trường hợp trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì doanh nghiệp phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng do ngân hàng nơi doanh nghiệp mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả lương.
Mức phạt dành cho công ty, doanh nghiệp chậm trả lương
Khoản 2, Điều 17, Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định mức phạt tiền đối với doanh nghiệp có hành vi trả lương không đúng hạn theo quy định của pháp luật:
Từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm từ 1 người đến 10 NLĐ;
Từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với vi phạm từ 11 người đến 50 NLĐ;
Từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với vi phạm từ 51 người đến 100 NLĐ;
Từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với vi phạm từ 101 người đến 300 NLĐ;
Từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với vi phạm từ 301 NLĐ trở lên.
Theo đó, tùy theo số lượng nhân viên mà doanh nghiệp chậm trả lương, mức phạt đối với hành vi trả lương không đúng hạn, không trả lương có thể dao động từ thấp nhất là 5.000.000 đồng đến cao nhất là 50.000.000 đồng.
Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng khi doanh nghiệp chậm trả lương
Tại điểm b, khoản 2, Điều 35 Bộ luật Lao động 2019 quy định việc không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn thì người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần báo trước theo quy định, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật này.