Ngày 7/3, tại TP Cần Thơ, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà chủ trì Hội nghị về sản xuất, tiêu thụ lúa gạo và tình hình hạn hán, xâm nhập mặn vùng ĐBSCL đầu năm 2025. Tham dự Hội nghị có lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường và các Bộ, ngành liên quan; lãnh đạo 13 tỉnh, thành vùng ĐBSCL; các Hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp, nhà khoa học.

Xây dựng chiến lược xác lập vị thế và bảo vệ uy tín của gạo Việt trên thị trường quốc tế
Năm 2025, diện tích gieo trồng lúa của cả nước dự kiến đạt 7 triệu ha, giảm 132 nghìn ha so với năm 2024. Trong đó, sản lượng lúa tại vùng ÐBSCL là 3,793 triệu ha, với sản lượng dự kiến đạt 24,057 triệu tấn.
Theo Bộ NN&MT, vụ đông xuân 2024-2025, vùng ÐBSCL sản xuất 1,5 triệu ha, với sản lượng dự kiến đạt 10,772 triệu ha. Tính đến hết tháng 2-2025, đã có 605.000 ha lúa đông xuân tại vùng ÐBSCL được thu hoạch, với sản lượng đạt 4,174 triệu tấn. Qua 2 tháng năm 2025, nước ta xuất khẩu được 1,1 triệu trấn gạo, tăng 5,9% so với cùng kỳ, giá trị đạt 613 triệu USD, giảm 13,6% so với cùng kỳ do giá gạo toàn cầu giảm.
Những tháng đầu năm 2025, thương mại lúa gạo toàn cầu diễn biến phức tạp, nguồn cung thế giới tăng cao, nhất là khi Ấn Ðộ mở cửa xuất khẩu trở lại, trong khi nhu cầu nhập khẩu gạo tại nhiều nước giảm đã tác động đến giá xuất khẩu gạo của Việt Nam và các nước. Theo đó, giá bán lúa của nông dân tại vùng ÐBSCL trong vụ đông xuân 2024-2025 cũng giảm đáng kể so với năm 2024.
Sau khi lắng nghe ý kiến, trao đổi giải pháp từ các hiệp hội, doanh nghiệp, một số địa phương và bộ ngành liên quan, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà cho rằng, năm 2023-2024, thị trường thế giới có những biến động lớn theo hướng có lợi cho nông dân và nước ta đã có những quyết sách đúng đắn, đó là tiếp tục xuất khẩu.
Để nâng cao năng lực quản lý và điều tiết thị trường, Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường khẩn trương xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành toàn diện. Hệ thống này sẽ tích hợp thông tin từ nhiều khâu: sản xuất, khoa học công nghệ, chế biến, bảo quản, thị trường và dự báo, nhằm cung cấp thông tin kịp thời và chính xác cho các bên liên quan.

Liên quan đến công tác quản lý xuất khẩu, Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Công thương khẩn trương kiểm tra, đánh giá đúng thực trạng tình hình thị trường lúa gạo trong nước. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung Nghị định 107/2018/NĐ-CP với những điều chỉnh quan trọng. Các doanh nghiệp muốn được cấp phép xuất khẩu phải đáp ứng các tiêu chí nghiêm ngặt. Chẳng hạn, năng lực liên kết sản xuất, hệ thống kho bãi và năng lực tài chính. Giải pháp này kỳ vọng nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp trong xuất khẩu gạo.
Chỉ đạo thêm về vấn đề xây dựng và bảo vệ thương hiệu gạo, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Bộ Khoa học Công nghệ xây dựng chiến lược để ngăn chặn việc các nước khác sử dụng trái phép nhãn hiệu gạo Việt Nam; xác lập vị thế và bảo vệ uy tín của gạo Việt trên thị trường quốc tế.
Đối với diện tích đất nông nghiệp, Phó Thủ tướng đề nghị rà soát kỹ lưỡng, tập trung phát triển những vùng có năng suất cao và khả năng thích ứng tốt với biến đổi khí hậu. Các địa phương có thể điều chỉnh từ 3 vụ/năm xuống 1-2 vụ/năm để nâng cao chất lượng sản xuất.
Nhờ lợi thế về điều kiện tự nhiên, ứng dụng khoa học công nghệ và yếu tố con người, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà tin tưởng, nông nghiệp Việt Nam có thể cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế.
Phó Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẩn trương tính toán, rà soát chính sách thuế, tín dụng để tạo điều kiện tối đa cho người dân, doanh nghiệp trong chuỗi ngành hàng lúa gạo nâng cao năng lực, tận dụng và phát triển hết tiềm năng, lợi thế của ngành hàng lúa gạo Việt Nam.

Nhận diện những yêu tố tác động tới sự biến động của thị trường lúa gạo
Trước đó, điều hành phiên thảo luận tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy đưa ra một số nhận định về tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo.
Ông cho biết, thông thường đầu năm công tác xuất khẩu gạo sẽ gặp khó khăn, kéo theo giá cả lên xuống. Bởi thời điểm này, các nước nhập khẩu gạo tính toán, cân nhắc giữa việc mua vào hoặc bán ra, hay cân đối lượng thu mua dự trữ để đảo kho, do đó việc thị trường lúa gạo biến động là chuyện tất yếu.
Mặt khác, trong năm 2024, thị trường lúa gạo gặp biến động lớn, khi Ấn Độ, Thái Lan có thời điểm dừng xuất khẩu. Dẫn đến một số quốc gia tăng mua dự trữ do lo ngại bất ổn, điều này tác động đến giá gạo tăng đột biến, trong đó có gạo Việt Nam.
Trở lại thị trường trong nước, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đánh giá, sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam nhiều năm qua giữ ổn định khoảng 7,5-8 triệu tấn, không có nhiều biến động. Mặt khác, các địa phương rất nỗ lực chuyển đổi sang lúa gạo chất lượng cao (hiện lúa gạo chất lượng cao chiếm khoảng 80-85% thị phần xuất khẩu), lúa gạo chất lượng thấp giảm xuống. Do đó, ở phân khúc thị trường sử dụng hàng hóa chất lượng cao không có nhiều biến động, thị trường sử dụng hàng hóa vừa chất lượng cao, vừa tầm trung có sự điều chỉnh.
Hiện nay, Việt Nam rải vụ quanh năm, nên khi phát sinh khó khăn chỉ có thể diễn ra trong khoảng 2-3 tháng. Nếu giải quyết được bài toán thu mua dự trữ trong thời điểm chờ thị trường điều chỉnh ổn định sẽ không gặp khó khăn. Đây là giải pháp điều hành, ứng xử phù hợp trong bối cảnh hiện nay.
Đối với vấn đề giá lúa giảm, thậm chí là giảm sâu ở một số phân khúc, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhận định, giá lúa hiện đang quay về mặt bằng của năm 2023, thời điểm trước khi tăng giá đột biến vào năm 2024. Kể cả giá gạo xuất khẩu, giai đoạn 2022-2023, giá bình quân trên dưới 400 USD/tấn, hiện nay là 530-540 USD/tấn, tuy có giảm so hơn với năm ngoái, nhưng vẫn đang cao hơn mặt bằng giá của năm 2023.
Đơn cử, giá thành sản xuất lúa IR50404 từ 3.800-4.300 đồng/kg, giá thu mua trên đồng trên 5.400 đồng/kg; các giống lúa chất lượng cao, giá thu mua hiện tại từ 6.000 đồng đến trên 7.000 đồng mỗi kilogam (tùy loại), mặt bằng giá này cũng không quá lo lắng.
Tuy nhiên, Bộ trưởng nhấn mạnh không chủ quan, bởi hiện nay các nước như Ấn Độ, Thái Lan, Philippines vẫn đang trong giai đoạn điều chỉnh việc thu mua, kể cả chính sách xuất khẩu. Do đó, các doanh nghiệp phải “nghe ngóng” để bám sát tình hình và phù hợp với sự điều chỉnh của các nước.
“Nếu chúng ta giữ bình ổn nguồn được trong vòng 1 quý, như vậy sẽ không thấy lo lắng. Để giải quyết được bài toán trong 1 quý này, những doanh nghiệp quy mô nhỏ không nên bán tống bán tháo, giữ ổn định việc thu mua cũng như có giải pháp tích trữ, chờ thời điểm thị trường điều chỉnh bình ổn mới đẩy rộng việc xuất khẩu”, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường phân tích.

Giải pháp cốt lõi mà người đứng đầu Bộ Nông nghiệp và Môi trường đưa ra và đề nghị các đại biểu tập trung thảo luận:
Thứ nhất, là tính toán giải pháp cho câu chuyện nâng cao năng lực hệ thống kho chứa để thu mua tích trữ trong lúc cao điểm.
Thứ hai, là hạn ngạch cho vay để doanh nghiệp thu mua dự trữ hiện đang ngắn, lãi suất chưa thực sự hấp dẫn. Do đó, Ngân hàng Nhà nước và các doanh nghiệp cần làm rõ thêm nhu cầu nguồn vốn tín dụng để đáp ứng năng lực dự trữ hiện tại.
Thứ ba, là vấn đề kiểm soát thị trường, theo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ đã nêu rõ, các địa phương phải tăng cường thanh tra, kiểm tra; xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng thời điểm khó khăn để ép giá nông dân.
Thứ tư, để ổn định thị trường về lâu dài, các doanh nghiệp xuất khẩu đầu mối phải có chuỗi liên kết với bà con nông dân, từ việc sản xuất đến thu mua, xay xát, chế biến, xuất khẩu. Tức là hình thành các chuỗi, doanh nghiệp phải có quy mô lớn, đảm bảo năng lực về vốn, hệ thống kho lưu trữ, có hệ thống “cánh tay nối dài” là các HTX để thu mua, vận chuyển.
Mở rộng nguồn vốn và kéo dài thời gian cho vay thu mua dự trữ
Kiến nghị giải pháp tháo gỡ những khó khăn trên, ông Nguyễn Ngọc Nam - Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) - cho rằng, năm 2023 Việt Nam xuất khẩu trên 8 triệu tấn, năm 2024 đạt khoảng 9 tấn. Điều này khẳng định, các doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động tìm kiếm thị trường, lượng lúa hàng hóa sản xuất ra không lo ngại vấn đề tiêu thụ.
Ông Nam kiến nghị Ngân hàng Nhà nước mở rộng nguồn vốn và kéo dài thời gian cho vay để doanh nghiệp thu mua dự trữ, đồng thời tháo gỡ vướng mắc trong hoàn thuế VAT.
Công ty Lương thực miền Nam (Vinafood II) - đơn vị vừa trúng thầu trúng thầu bán 100 nghìn tấn gạo cho Bangladesh - cũng đề xuất việc đẩy mạnh thu mua dự trữ gạo đông xuân. Theo ông Trần Tấn Đức - Tổng Giám đốc Vinafood II, hằng năm, Cục Dự trữ Quốc gia triển khai mua từ 80-100 nghìn tấn gạo, cộng với đơn hàng cung ứng cho Bangladesh của Vinafood II, đây là thời điểm thích hợp nhất để thu mua vào, qua đó có thể kích giá.
Ở một góc độ khác, ông Lê Thanh Tùng - Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam - cho biết, hiện nay thông tin về sản xuất, thương mại lúa có rất nhiều, nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của các địa phương, doanh nghiệp và bà con nông dân; thông tin cập nhật nhiều khi còn chậm. Để cải thiện vấn đề này, Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam sẵn sàng thiết kế, đồng hành cùng các đơn vị đầu mối thông tin thuộc Bộ để cung cấp, chuyển giao tất cả các thông tin đến các doanh nghiệp, địa phương kịp thời hơn, nhất là trong quá trình triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao.

Thứ trưởng NN&MT Trần Thanh Nam cho biết, năm nay cả nước dự kiến có 7 triệu ha sản xuất lúa, giảm 132.000ha so với năm trước. Riêng khu vực ĐBSCL có gần 3,8 triệu ha lúa, sản lượng khoảng 24 triệu tấn. Hiện vụ lúa Đông Xuân đang thu hoạch, với tổng diện tích khoảng 1,5 triệu ha, sản lượng ước đạt hơn 10,7 triệu tấn. Diện tích có xu hướng giảm nhưng năng suất vẫn duy trì ổn định, tổng sản lượng lúa không biến động quá lớn.
Ông Nam cho biết, thị trường lúa gạo đầu năm 2025 gặp nhiều thách thức, nguồn cung gạo trên thế giới tăng mạnh, trong khi nhu cầu nhập khẩu tại các thị trường lớn vẫn thận trọng, khiến giá gạo giảm.
Trong nước, đầu tháng 3, giá lúa IR50404 tại ruộng từ 5.500 - 5.700 đồng/kg, tăng nhẹ so với tháng trước, nhưng vẫn thấp hơn cùng kỳ năm ngoái; giá lúa OM18 chỉ còn 6.300 - 6.600 đồng/kg (giảm khoảng 10% so với cùng kỳ năm trước).
Về dài hạn, Bộ NN&MT tiếp tục đẩy mạnh triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại vùng ĐBSCL. Trong đó, tập trung giảm diện tích lúa chất lượng thấp, tăng giống lúa đặc sản, theo nhu cầu thị trường quốc tế./.