Vựa lúa Đồng bằng sông Cửu Long chủ động giữ nước ngọt phục vụ sản xuất tránh hiện tượng cạn kiệt cục bộ

Do nền dòng chảy mùa khô năm 2025 ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục suy giảm, dự báo mặn (nước biển) sẽ xâm nhập mạnh hơn vào trong nội đồng. Do đó các khu vực thường xuyên bị ảnh hưởng mặn ở vùng "Vựa lúa số 1 Việt Nam" cần vận hành công trình ngăn mặn phù hợp bảo vệ sản xuất; chủ động giữ nước ngọt phục vụ sản xuất tránh hiện tượng cạn kiệt cục bộ.
xam-nhap-man-dbscl-4-1741161313.jpg
Các địa phương trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long được khuyến cáo cần theo dõi chặt chẽ thông tin về diễn biến nguồn nước trên các sông, kênh rạch để chủ động giữ nước ngọt phục vụ sản xuất tránh hiện tượng cạn kiệt cục bộ.(Ảnh minh họa)

3 loại tác động lớn đặt ĐBSCL vào thế phải chống đỡ, thích nghi

Theo các chuyên gia nhận định, hhiện Đồng bằng sông Cửu Long đang chịu 3 loại tác động lớn và rất bất lợi như phát triển thượng lưu sông Mê Công, với nhiều hồ chứa được xây dựng, dung tích hữu ích hiện nay ước tính khoảng 69-73 tỷ m3. Tác động từ biển, trong đó nước biển dâng là quan trọng nhất và lún sụt mặt đất do cấu kết tự nhiên và con người khai thác nước ngầm, xây dựng hạ tầng gây ra. Trong đó, 2 yếu tố đầu tiên và một phần yếu tố thứ 3 là từ bên ngoài, đặt Đồng bằng sông Cửu Long vào thế phải chống đỡ, thích nghi.

Các tác động lớn đến Đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm dòng chảy về Đồng bằng thay đổi quy luật, do đó làm thay đổi chế độ nước trên đồng bằng cả hai mùa lũ và kiệt. Mất phù sa về đồng bằng, dẫn đến xói lở bờ sông, bờ biển. Nguồn nước mùa khô biến động mạnh, đặc biệt là hạn mặn có thể xảy ra bất thường và nghiêm trọng hơn.

Với các tác động nói trên, Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt 3 thách thức rất lớn đối với phát triển bền vững là an ninh nguồn nước, ngập nước diện rộng và kéo dài trong tương lai và suy thoái đồng bằng như xói lở bờ biển, bờ sông và hạ thấp đồng bằng.

Theo thông tin mới nhất từ Ủy ban sông Mekong Việt Nam, nền dòng chảy mùa khô năm 2025 ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục suy giảm, dự báo mặn (nước biển) sẽ xâm nhập mạnh hơn vào trong nội đồng.

Do đó các khu vực thường xuyên bị ảnh hưởng mặn ở vùng "Vựa lúa số 1 Việt Nam" cần vận hành công trình ngăn mặn phù hợp bảo vệ sản xuất; chủ động giữ nước ngọt phục vụ sản xuất tránh hiện tượng cạn kiệt cục bộ.

xam-nhap-man-dbscl-1-1741161296.jpg
Theo thông tin mới nhất từ Ủy ban sông Mekong Việt Nam, nền dòng chảy mùa khô năm 2025 ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục suy giảm, dự báo mặn (nước biển) sẽ xâm nhập mạnh hơn vào trong nội đồng.(Ảnh minh họa)

Dẫn số liệu quan trắc, dự báo xu thế thủy văn và nguồn nước từ Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia, Ủy hội sông Mekong quốc tế, đại diện Ủy ban sông Mekong Việt Nam cho biết tổng lượng mưa trong tháng 3/2025 trên lưu vực sông Mekong sẽ ở mức xấp xỉ trung bình nhiều năm, chênh lệch so với trung bình nhiều năm khoảng từ 5-20%, tùy theo từng tiểu lưu vực.

Trong đó, các khu vực thượng lưu ở mức tương đương trung bình nhiều năm, khu vực đông bắc Thái Lan và châu thổ có xu thế tăng so với trung bình nhiều năm. Các hồ trên sông Lan Thương đang chứa ở mức tương đối cao khoảng 75% tổng dung tích hữu ích, các hồ ở hạ lưu vực sông Mekong cũng đang chứa ở mức khoảng 60% dung tích hữu ích và có thể sẽ tiếp tục phát điện như hiện nay.

Dự báo dòng chảy qua trạm Kra-chê (Campuchia) sẽ tiếp tục giảm, dự báo tổng lượng dòng chảy qua trạm Kra-chê trong tháng Ba này biến động trong khoảng từ 6,4 tỷ m3 đến 8,2 tỷ m3, trong khi lượng nước trữ ở Biển Hồ hiện tại là 2,2 tỷ m3 nên khả năng đóng góp vào dòng chính sông sông Mekong dần hạn chế.

Kết hợp các thông tin trên với dự báo xu thế thủy triều, tài nguyên nước, Ủy ban sông Mekong Việt Nam nhận định mực nước lớn nhất ngày tại trạm Tân Châu (tỉnh Tây Ninh) trong tháng Ba sẽ biến động theo thủy triều trong khoảng từ 1,1 m đến 1,6m.

Lưu lượng dòng chảy trung bình ngày qua trạm Tân Châu trong tháng Ba được nhận định sẽ biến động trong khoảng 3.000 m3/s đến 4.500 m3/s, ở mức tương đương với trung bình nhiều năm nhưng thấp hơn so với cùng kỳ năm 2024 khoảng 5%. Tổng lượng dòng chảy trong tháng Ba qua Tân Châu sẽ ở mức từ 10 tỷ m3 đến 11 tỷ m3, ở mức tương đương với trung bình nhiều năm và thấp hơn cùng kỳ 2024 khoảng 5%.

Mực nước lớn nhất ngày tại trạm Châu Đốc (An Giang) trong tháng Ba được nhận định sẽ biến động trong khoảng từ 1,2 m đến 1,6 m. Lưu lượng trung bình ngày qua trạm biến động trong khoảng 250 m3/s đến 480 m3/s ở mức thấp hơn trung bình nhiều năm và cùng kỳ năm 2024 lần lượt khoảng 24% và 6%.

Tổng lượng dòng chảy trong tháng Ba qua trạm Châu Đốc được nhận định sẽ ở mức từ 1,0 tỷ m3 đến 1,1 tỷ m3 ở mức thấp hơn trung bình nhiều năm từ 18 % đến 29% và thấp hơn cùng kỳ năm 2024 từ 0% đến 11%.

Đồng bằng sông Cửu Long cần tiếp tục tăng cường các giải pháp phi công trình để ứng phó phù hợp

Trên cơ sở kết quả dự báo dòng chảy về Đồng bằng sông Cửu Long và dự báo triều tháng Ba, Ủy ban sông Mekong Việt Nam dự báo đường ranh mặn 1g/l vào sâu nhất trên ba nhánh sông lớn là sông Hậu, sông Tiền và sông Vàm Cỏ Tây dự kiến vào sâu hơn khoảng từ 3-13 km so với trung bình nhiều năm; đường ranh mặn 4g/l trên ba nhánh sông này vào sâu hơn so với trung bình nhiều năm khoảng từ 3-10 km.

Theo các phân tích ở trên, nền dòng chảy mùa khô năm 2025 sẽ tiếp tục suy giảm. Do vậy, các địa phương trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cần theo dõi chặt chẽ thông tin về diễn biến nguồn nước trên các sông, kênh rạch để chủ động giữ nước ngọt phục vụ sản xuất tránh hiện tượng cạn kiệt cục bộ.

Ngoài ra, mặn cũng sẽ xâm nhập mạnh hơn vào trong nội đồng, do đó các khu vực thường xuyên bị ảnh hưởng mặn cần theo sát các thông tin giám sát mặn và các bản tin dự báo xâm nhập mặn để vận hành công trình ngăn mặn phù hợp bảo vệ sản xuất.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Bá Hoằng, Viện trưởng Viện Khoa học thủy lợi miền Nam cho biết, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn nhận diện và định hướng chiến lược quan trọng đối với đồng bằng là chủ động thích nghi có kiểm soát, làm chủ tình huống khi bất lợi xảy ra, lấy tài nguyên nước làm cốt lõi để bố trí sản xuất, định hướng phát triển.

Đồng bằng sông Cửu Long cần chủ động về nguồn nước cho các vùng sản xuất dựa theo sinh thái tự nhiên, với 3 loại hình tiêu biểu là thủy sản mặn lợ ven biển, trái cây và lúa gạo.

Đối với vùng ven biển, đây là vùng khó khăn về nước và dễ bị tổn thương, nhiệm vụ trọng yếu là chủ động nguồn nước, được thực hiện theo chiến lược nâng cấp các hệ thống thủy lợi ven biển như: Xây dựng các công trình kiểm soát mặn, lấy nước ngọt và chủ động chuyển nước ngọt cho các vùng khan hiếm nước có tiềm năng kinh tế cao như các vùng nuôi tôm.

Cùng với các hệ thống thủy lợi tăng cường nguồn cấp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khuyến khích nhân dân tự tích nước, tích nước rải, quy mô hộ gia đình.

xam-nhap-man-dbscl-2-1741161404.jpg
Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long rà soát, hoàn thiện quy trình vận hành các hệ thống thủy lợi đã hình thành để tăng cường vận hành, kết nối nguồn nước trong nội vùng nhằm nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên đất - nước và công trình thủy lợi. (Ảnh minh họa)

Đối với vùng ngập lũ, theo đánh giá và dự báo của Viện Khoa học thủy lợi miền Nam, hiện nay tần suất xuất hiện lũ lớn giảm mạnh (khoảng 10 - 15 năm mới xuất hiện 1 lần; tương lai khi thượng lưu hoàn thiện các hồ chứa theo quy hoạch khoảng 110 tỷ m3 thì khoảng 90 - 100 năm mới xuất hiện 1 lần), lũ vừa và lũ nhỏ xuất hiện thường xuyên, do đó việc sản xuất trên vùng ngập lũ cần thay đổi cho phù hợp để khai thác tốt nhất tài nguyên đất và nước với các mô hình kinh tế nông nghiệp phù hợp.

Lãnh đạo Viện Khoa học thủy lợi miền Nam nhận định trong bối cảnh diễn biến xâm nhập mặn có xu thế xuất hiện ngày càng gay gắt, biến động bất thường và thường xuyên hơn, trong khi các giải pháp hệ thống công trình thủy lợi còn đang dần hoàn thiện trong thời gian tới. Do đó, để giảm thiểu tối đa thiệt hại, Viện Khoa học thủy lợi miền Nam khuyến cáo các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long cần tiếp tục tăng cường các giải pháp phi công trình để chỉ đạo điều hành, xây dựng các kịch bản hạn hán, xâm nhập mặn có thể xảy ra trên địa bàn và giải pháp ứng phó phù hợp.

Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long tăng cường, hiện đại hóa công tác giám sát, cập nhật các bản tin của các cơ quan dự báo chuyên ngành phục vụ cho công tác điều hành mùa vụ, tạo thuận lợi cho nhân dân có thông tin về nguồn nước để chuyển đổi sản xuất ngắn và dài hạn. Điều chỉnh mềm dẻo lịch sản xuất theo từng mùa, từng năm. Thay đổi, điều chỉnh các mô hình sản xuất theo hướng ít sử dụng nước ngọt hơn và tăng cường khuyến khích người dân tích trữ nước trong các ao, mương khu vực vườn cây ăn trái và trên ruộng (đối với lúa) trước thời điểm dự báo có đợt xâm nhập mặn.

Đồng thời, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long rà soát, hoàn thiện quy trình vận hành các hệ thống thủy lợi đã hình thành để tăng cường vận hành, kết nối nguồn nước trong nội vùng nhằm nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên đất - nước và công trình thủy lợi, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Bá Hoằng, Viện trưởng Viện Khoa học thủy lợi miền Nam cho biết./.

Bình Nguyên