Vĩnh Phúc: Thúc đẩy chuyển đổi số ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn

Thời gian gần đây, tỉnh Vĩnh Phúc đã triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm hướng tới một nền nông nghiệp số hoàn chỉnh với việc phát triển đồng bộ nền tảng hạ tầng số, chính quyền số nông nghiệp, kinh tế số nông nghiệp và nông dân, nông thôn số.

Chuyển đổi số ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn có vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn theo hướng hiện đại, giá trị gia tăng cao và bền vững, khẳng định vai trò “trụ đỡ” của nền kinh tế, trở thành “thước đo mức độ bền vững của quốc gia”.

Chuyển đổi số là giải pháp quan trọng giúp người nông dân, doanh nghiệp sản xuất nông sản chất lượng, với chi phí thấp nhất, nhưng đạt lợi nhuận cao nhất. Mục tiêu này cũng đang được các ngành, địa phương và các doanh nghiệp, người dân đẩy mạnh, với kỳ vọng tạo được sự đột phá về năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cho nông sản.

Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, công nghệ cao, công nghệ số trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc đã phát triển mạnh trong những năm gần đây, giúp giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm từ đó đem lại hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất.

lua-1676101111.jpg
Chuyển đổi số là giải pháp quan trọng giúp người nông dân, doanh nghiệp sản xuất nông sản chất lượng, với chi phí thấp nhất, nhưng đạt lợi nhuận cao nhất. Ảnh minh hoạ (Ảnh: Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính)

Cụ thể, trong lĩnh vực trồng trọt, tỉnh Vĩnh Phúc đã áp dụng rồng rau, hoa trong nhà lưới bằng kỹ thuật thuỷ canh, canh tác trên giá thể không đất, hệ thống tưới nhỏ giọt, phun sương, phun thuốc bảo vệ thực vật bằng sử dụng máy bay không người lái trong trồng lúa; sử dụng cây trồng được sản xuất theo công nghệ nuôi cấy mô (chuối tiêu hồng, hoa lan,...) áp dụng IPM, ICM, VietGAP trên cây trồng.

Ứng dụng biện pháp tưới nhỏ giọt cho cây thanh long trên vùng đất đồi theo công nghệ Israel để nâng cao hiệu quả sản xuất tại huyện Lập Thạch... Hỗ trợ áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) đối với 28 cơ sở sản xuất chế biến rau quả; hỗ trợ 6 HTX tham gia dự án xây dựng chuỗi giá trị trong sản xuất rau có ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và quản trị chu trình sản xuất hàng hóa, truy xuất nguồn gốc, đảm bảo an toàn thực phẩm, gắn với hình thành thương hiệu, phát triển thị trường và bền vững với môi trường.

Hiện, trên địa bàn tỉnh đã có một số cơ sở ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất chăn nuôi như: Chăn nuôi lợn áp dụng công nghệ nuôi chuồng kín (160 trang trại); chăn nuôi gà áp dụng công nghệ nuôi chuồng kín (120 trang trại); giết mổ gia súc gia cầm công nghiệp áp dụng theo dây chuyền tự động (02 cơ sở: 01 cơ sở giết mổ lợn và 01 cơ sở giết mổ gia cầm). Hỗ trợ áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) đối với 95 cơ sở chăn nuôi bò, lợn, gà để đảm bảo an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc.

Được biết, các ngành chức năng tỉnh đã sử dụng cơ sở dữ liệu của Bộ NN&PTNT cũng như ứng dụng công nghệ viễn thám (các loại phần mềm, GPS…), công nghệ thông tin (thiết bị điện tử, di động) và hệ thống thông tin địa lý (Mapinfo, ArcGIS…) trong điều tra, kiểm kê và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng. Hiện nay, chi cục kiểm lâm đã đề xuất và triển khai dự án về quản lý rừng thông minh trên địa bàn tỉnh. Xây dựng được các mô hình ứng dụng công nghệ “sông trong ao” để nuôi cá, ứng dụng hệ thống cảm biến kiểm soát các yếu tố môi trường nước trong nuôi cá nước ngọt thâm canh cao. Tuy nhiên, chưa có cơ sở dữ liệu và các ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản.

Tỉnh cũng đã xây dựng một số mô hình tưới tiết kiệm cho cây trồng cạn; ứng dụng công nghệ mới trong xử lý thấm các công trình thuỷ lợi; nghiên cứu, áp dụng mức tưới, hệ số tưới cho lúa áp dụng trong quy hoạch, thiết kế, quản lý khai thác các công trình thủy lợi; bản đồ quản lý tưới. Đã ứng dụng trạm quan trắc tự động hoặc hệ thống SCADA trong quản lý vận hành công trình thủy lợi nhưng kết quả còn hạn chế. Về mặt quản lý, chi cục thủy lợi cũng đang sử dụng, ứng dụng cơ sở dữ liệu của Tổng cục thủy lợi, Tổng cục phòng chống thiên tai trong quản lý.

Thời gian tới, tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số ngành NN&PTNT một cách đồng bộ, nhất quán và hiệu quả, huy động được sự tham gia của mọi thành phần trong chuỗi giá trị nông nghiệp nhằm tối ưu hóa sản xuất, kinh doanh, giảm rủi ro, thiệt hại do biến đổi khí hậu, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm nông nghiệp một cách bền vững, hướng tới một nền nông nghiệp số hoàn chỉnh với việc phát triển đồng bộ nền tảng hạ tầng số, chính quyền số nông nghiệp, kinh tế số nông nghiệp và nông dân, nông thôn số.

Đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế số, địa phương này hỗ trợ xây dựng được 02 mô hình (ưu tiên lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi) ứng dụng công nghệ số vào sản xuất, kinh doanh, quản lý giám sát chất lượng; Triển khai chuỗi cung ứng nông sản trên nền tảng Blockchain để quản lý nông sản từ quá trình sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến và tiêu thụ.

Ứng dụng các nền tảng công nghệ phục vụ truy suất nguồn gốc nông sản đối với các nông sản chủ lực, sản phẩm OCOP của tỉnh Vĩnh Phúc. 15% số hợp tác xã nông nghiệp đang hoạt động có tham gia thương mại điện tử (quảng bá, xúc tiến thương mại, …), ứng dụng công nghệ số (IoT, Drone, …); 50% các làng nghề truyền thống được công nhận, có tiếp cận với công nghệ số. Triển khai hệ thống quản lý mã vùng trồng, cơ sở chăn nuôi cho sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh. 10% sản phẩm chủ lực lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi được cấp mã vùng. Ứng dụng công nghệ số đưa hộ sản xuất nông nghiệp các sản phẩm chủ lực, sản phẩm OCOP của tỉnh lên sàn thương mại điện tử. 100% các sản phẩm OCOP được đưa lên các sàn thương mại điện tử.

Chuyển đổi số đồng bộ các ngành hàng nông nghiệp chủ lực, tập trung vào lĩnh trồng trọt, chăn nuôi (ưu tiên 4 ngành hàng cây thanh long, rau an toàn, lợn, gia cầm); Xây dựng các mô hình áp dụng đồng bộ công nghệ số trong sản xuất nông nghiệp cho các sản phẩm chủ lực phục vụ tham quan, đào tạo, trao đổi kinh nghiệm cho người dân và doanh nghiệp;

Xây dựng các phần mềm sổ tay điện tử ngành NN&PTNT (dạng app mobile) và kết nối cơ sở dữ liệu để giúp nhà quản lý, người dân, doanh nghiệp trong tỉnh tra cứu các quy trình kỹ thuật sản xuất, thủ tục hành chính, dự tính, dự báo và hướng dẫn phòng trừ sinh vật có hại đối với cây trồng, vật nuôi; kết nối thị trường vật tư nông nghiệp, tiêu thụ sản phẩm… cho cây trồng, vật nuôi chủ lực...

Một số giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số ngành nông nghiệp

Ông Đặng Duy Hiển, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, thực hiện chuyển đổi số, kinh tế số trong nông nghiệp phải dựa trên nền tảng dữ liệu. Theo đó, cần tập trung xây dựng các hệ thống dữ liệu lớn, trong đó ưu tiên về đất trồng lúa, đất rừng, cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản; xây dựng mạng lưới quan sát, giám sát tích hợp trên không và mặt đất phục vụ các hoạt động nông nghiệp. Đồng thời, thúc đẩy cung cấp thông tin về môi trường, thời tiết, chất lượng đất đai để giúp người nông dân nâng cao năng suất và chất lượng cây trồng, cũng như hỗ trợ chia sẻ các thiết bị nông nghiệp qua các nền tảng số. Đặc biệt, cần xem xét thử nghiệm sáng kiến “Mỗi nông dân là một thương nhân, mỗi hợp tác xã là một doanh nghiệp ứng dụng công nghệ số” với mục tiêu mỗi người nông dân được định hướng, đào tạo ứng dung công nghệ số trong sản xuất, cung cấp, phân phối, dự báo (giá, thời vụ...) nông sản, đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử.

Bên cạnh đó, cần tăng cường thực hiện chuyển đổi số, chính phủ điện tử trong công tác quản lý để đề xuất và thực thi các chính sách, chỉ đạo điều hành hệ thống, hệ sinh thái nông nghiệp hiệu lực, hiệu quả, thích ứng với kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và trong điều kiện ứng phó nhanh với tác động của dịch bệnh, biến đổi khí hậu, như dự báo, cảnh báo thị trường, thông tin kết nối cung - cầu phát triển thị trường nông sản.

Để chuyển đổi số nông nghiệp thành công cần đồng hành cùng nông dân, hỗ trợ nông dân ứng dụng công nghệ số vào sản xuất. Người nông dân trong chuyển đổi số nông nghiệp không chỉ đóng vai trò chủ lực mà còn là nhóm cần được quan tâm nhất. Để thích ứng với chuyển đổi số, việc tập huấn, nâng cao kỹ năng số cho người nông dân là yêu cầu cấp thiết cần được các cấp, các ngành quan tâm hơn nữa. Người nông dân ngoài chủ động học hỏi nâng cao vai trò của người nông dân trong chuyển đổi số nông nghiệp, có thể chủ động lên sàn, giao lưu với người mua, giới thiệu những đặc tính khác biệt của sản phẩm để có giá trị cao hơn.

Bên cạnh yếu tố về nhân lực, vốn cũng là một trong những vấn đề then chốt giúp chuyển đổi số ngành nông nghiệp thành công. Hiện nay, đã có nhiều chính sách hấp dẫn nhưng khi đưa vào thực thi vẫn còn tồn tại ràng buộc về hành chính như 10% nguồn thu của doanh nghiệp được đầu tư cho đổi mới sáng tạo nhưng đổi mới sáng tạo là gì vẫn chưa định hình rõ làm cho các doanh nghiệp lúng túng khi sắp xếp nguồn vốn. Vì vậy, nên để cho doanh nghiệp chủ động hơn trong việc tiếp cận các nguồn vốn, sau đó đưa ra chính sách hỗ trợ như chính sách về thuế thu nhập doanh nghiệp… giúp doanh nghiệp chủ động và có đủ nguồn lực tài chính đầu tư vào công nghệ.

Ánh Dương (t/h)