Nông nghiệp Việt Nam chuyển đổi xanh để đón thời cơ và vận hội mới thực hiện những mục tiêu bền vững

Việt Nam là nước nông nghiệp, lại đang muốn rút ngắn quá trình thực hiện những mục tiêu bền vững. Bởi vậy, không gì tốt hơn việc nông nghiệp sẽ đi đầu, là động lực thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh, giúp tăng sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường toàn cầu.
chuyen-doi-xanh-nong-nghiep-2-1741058722.jpg
Nông nghiệp tuần hoàn hướng tới việc tận dụng tối đa các nguồn tài nguyên, giảm nhiều nhất lượng chất thải gây ô nhiễm môi trường. (Ảnh minh họa)

Các chuyên gia nhận định, đã có nhiều mô hình chuyển đổi hệ thống sản xuất nông nghiệp từ nâu sang xanh. Có thể kể đến như nông nghiệp sinh thái, hướng tới sự cân bằng của hệ sinh thái, tăng cường sử dụng các biện pháp sinh học để phòng trừ sâu bệnh, bảo vệ đất và nguồn nước. Ngoài ra còn nông nghiệp tuần hoàn, hướng tới việc tận dụng tối đa các nguồn tài nguyên, giảm nhiều nhất lượng chất thải gây ô nhiễm môi trường. Việc sử dụng phụ phẩm nông nghiệp để sản xuất phân bón hữu cơ, khí sinh học, hoặc tái chế chất thải nông nghiệp là những ví dụ.

Nông nghiệp thông minh, giúp tối ưu hóa sử dụng tài nguyên, giảm lãng phí; hay phát triển nông nghiệp gắn với bảo tồn, bằng cách chọn tạo nhiều giống cây trồng, vật nuôi bản địa, bảo vệ các khu vực có giá trị đa dạng sinh học cao… Tất cả đều là minh chứng cho việc hài hòa lợi ích giữa phát triển nông nghiệp với bảo vệ môi trường.

Chuyển đổi số sẽ hỗ trợ phát triển công nghiệp xanh, kinh tế tuần hoàn và kinh tế xanh

Theo PGS-TS Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), một trong những yếu tố quan trọng của kinh tế xanh là tài chính xanh, dựa trên nền tảng thị trường carbon. Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định xây dựng đề án phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, tạo động lực thúc đẩy đầu tư xanh. Điều này giúp doanh nghiệp và người dân chuyển đổi năng lượng hiệu quả hơn, đặc biệt khi năng lượng chiếm tới 73% tổng lượng phát thải của Việt Nam.

Bên cạnh đó, hệ thống nông nghiệp và lương thực bền vững cũng đóng vai trò quan trọng. Quá trình chuyển đổi này bao gồm việc giảm phát thải từ phân bón, thuốc trừ sâu, đồng thời cải tiến các khâu liên quan đến bao bì và thực phẩm - lĩnh vực đang chiếm tới 33% tổng lượng phát thải toàn cầu.

Trong lĩnh vực công nghiệp, chuyển đổi số sẽ hỗ trợ phát triển công nghiệp xanh, kinh tế tuần hoàn và kinh tế xanh trên cơ sở giảm thiểu rác thải và đẩy mạnh tái chế. Hạ tầng xanh, giao thông thông minh và quá trình điện khí hóa hệ thống phương tiện công cộng cũng là những yếu tố quan trọng trong mô hình phát triển bền vững.

Nói về nỗ lực của Việt Nam trong chuyển đổi xanh, PGS-TS Nguyễn Đình Thọ cho biết, Việt Nam đang từng bước hoàn thiện thể chế, tăng cường phát triển hạ tầng xanh, tài chính xanh, cũng như thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo nhằm đáp ứng yêu cầu chuyển đổi xanh. Đồng thời, việc xây dựng và phát triển thị trường carbon sẽ tạo nền tảng quan trọng để thực hiện các cam kết ứng phó với biến đổi khí hậu, hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Song song đó, Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo như: năng lượng gió, năng lượng mặt trời, đồng thời triển khai các giải pháp lưu trữ năng lượng nhằm giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch.

Chính phủ cũng đang hoàn thiện các chính sách, quy định nhằm thu hút đầu tư vào năng lượng tái tạo, nâng cao hiệu suất năng lượng trong sản xuất công nghiệp và xây dựng đô thị thông minh để thúc đẩy tăng trưởng xanh.

chuyen-doi-xanh-nong-nghiep-3-1741059016.jpg
PGS-TS Nguyễn Đình Thọ cho rằng: Quá trình chuyển đổi xanh không thể tách rời chuyển đổi số. (Ảnh Tư liệu)

Còn ông Lim Dyi Chang, Giám đốc Khối khách hàng Doanh nghiệp Ngân hàng UOB Việt Nam cho rằng, để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh và hướng tới mục tiêu Net Zero, cần có một cách tiếp cận đa chiều nhằm hỗ trợ nền kinh tế dịch chuyển từ mô hình truyền thống sang nền kinh tế xanh.

Chính phủ Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp áp dụng công nghệ xanh và thực hành bền vững. Việc ban hành hướng dẫn rõ ràng, cung cấp các ưu đãi và xây dựng môi trường pháp lý ổn định sẽ giúp giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, đồng thời thúc đẩy đầu tư vào năng lượng tái tạo, quản lý chất thải và hạ tầng xanh.

Chuyển đổi xanh cũng cần được đồng bộ với quá trình chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam. Việc tích hợp công nghệ số vào các sáng kiến xanh sẽ giúp doanh nghiệp tối ưu hóa hoạt động, nâng cao hiệu quả và giảm lượng khí thải carbon. Điều này đòi hỏi đầu tư vào hạ tầng bền vững cũng như các công nghệ tiên tiến như lưới điện thông minh, hệ thống tiết kiệm năng lượng và sản xuất thân thiện với môi trường.

Ngoài ra, để đảm bảo nguồn vốn cho quá trình này, các tổ chức tài chính cần tiếp tục mở rộng các kênh tài trợ xanh, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các giải pháp bền vững và năng lượng tái tạo.

Tích hợp nguồn lực, chính sách giữa hai lĩnh vực nông nghiệp và môi trường

Hiện tại, nền kinh tế xanh của Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 5% GDP, trong khi nền kinh tế nâu vẫn chiếm ưu thế với tỷ trọng lên tới 95%. Điều này cho thấy dư địa phát triển kinh tế xanh vẫn còn rất lớn.

Nếu có chiến lược triển khai hiệu quả, Việt Nam có thể tận dụng cơ hội này để chuyển đổi mạnh mẽ, không chỉ đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế mà còn hướng tới một mô hình phát triển bền vững, đem lại lợi ích lâu dài cho nền kinh tế và cộng đồng.

chuyen-doi-xanh-nong-nghiep-4-1741059057.jpg
PGS.TS Nguyễn Thế Chinh, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam. (Ảnh Tư liệu)

Theo PGS.TS Nguyễn Thế Chinh - Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam, chuyển đổi xanh chỉ là một trong số rất nhiều cố gắng để giải quyết vùng giao thoa về quản lý Nhà nước giữa ngành nông nghiệp và môi trường.

Từ lâu, việc chồng chéo thẩm quyền, thiếu sự thống nhất trong chính sách, chỉ đạo điều hành giữa Bộ NN&PTNT và Bộ TN&MT được xác định là rào cản, gây khó khăn cho việc thực hiện đồng bộ mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp, đồng thời bảo vệ tài nguyên môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.

Ví dụ điển hình là sự khác biệt trong cách tiếp cận về sử dụng đất. Trong khi Bộ NN&PTNT tập trung vào việc mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về lương thực, thực phẩm cho người dân trong nước và xuất khẩu, thì Bộ TN&MT lại ưu tiên bảo vệ diện tích rừng tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, duy trì và phát triển các hệ sinh thái quan trọng. Việc thiếu tiếng nói chung dẫn đến khó khăn trong kiếm tìm giải pháp tối ưu, dung hòa lợi ích của phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.

Mọi chuyện sẽ khác từ ngày 1/3, khi Bộ Nông nghiệp và Môi trường chính thức đi vào hoạt động, giúp giải quyết triệt để những tồn tại, bất cập kéo dài trong việc phối hợp chính sách giữa hai lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, vốn là hai trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Chúng ta có thể yên tâm, rằng nếu phát triển sản xuất theo đúng định hướng, quy hoạch và có phương án hỗ trợ, đảm bảo sinh kế cho người dân, tự hoạt động ấy sẽ mang đến những lợi ích cho môi trường.

chuyen-doi-xanh-nong-nghiep-1-1741059092.jpg
Đã có nhiều mô hình chuyển đổi hệ thống sản xuất nông nghiệp từ nâu sang xanh. Có thể kể đến như nông nghiệp sinh thái, hướng tới sự cân bằng của hệ sinh thái, tăng cường sử dụng các biện pháp sinh học để phòng trừ sâu bệnh, bảo vệ đất và nguồn nước.(Ảnh minh họa)

PGS.TS Nguyễn Thế Chinh chia sẻ, bản thân tôi từng tham gia, nghiên cứu và đề xuất một số vấn đề liên quan đến chi trả dịch vụ môi trường rừng (ở nước ngoài là chi trả dịch vụ hệ sinh thái) và nhận thấy, rằng đó là điều hoàn toàn khả thi.

Tiền dịch vụ môi trường từ các công ty khai thác thủy điện được chi trả một phần cho những hộ dân trồng rừng, sống tại vùng đệm, giúp họ yên tâm giữ rừng, không xâm hại và sản xuất trong rừng trái phép. Từ đó, Việt Nam sẽ có nhiều hàng hóa “xanh hơn”, không có nguồn gốc từ các vùng trồng gây mất rừng và dễ dàng hơn trong việc đáp ứng yêu cầu ngày một khắt khe của thị trường quốc tế, ở đây là EUDR.

Dưới vai trò một lĩnh vực thống nhất, nông nghiệp và môi trường còn kế thừa nhiều bài học kinh nghiệm cũ. Chẳng hạn, thành công trong chi trả dịch vụ môi trường rừng sẽ tiếp tục được phát huy khi Bộ mới triển khai chi trả dịch vụ môi trường đất ngập nước, dịch vụ môi trường biển, hoặc thiết lập các khu bảo tồn biển, khu dự trữ sinh quyển trên khắp đất nước.

PGS.TS Nguyễn Thế Chinh cũng cho rằng, Việt Nam từng vấp phải bẫy “thu nhập trung bình”, nguyên nhân bởi thiếu những tư tưởng mới và lãng phí nguồn lực. Tin rằng, với xuất phát điểm từ nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên thiên nhiên, chúng ta sẽ có thêm nhiều chính sách đồng bộ để giải quyết các điểm nghẽn về thể chế trước đây, đưa nông nghiệp thực sự trở thành thế mạnh của quốc gia và môi trường là nền tảng cho phát triển bền vững.

Trong tương lai gần, người nông dân ngoài bán lúa còn có thể bán tín chỉ carbon từ việc canh tác giảm phát thải. Và có lẽ khi ấy, chuyển đổi xanh sẽ không còn "đơn giá trị" trong mắt mọi người./.

Trọng Bình