Ngành lâm nghiệp đã đạt được nhiều kết quả tích cực
Tại Hội thảo “Giải pháp thực hiện Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam trong bối cảnh mới, ông Triệu Văn Lực - Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) cho biết: “Sau 3 năm triển khai thực hiện Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, ngành Lâm nghiệp đã triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp và đạt được nhiều kết quả rất quan trọng trên tất cả các mặt: Kinh tế, an sinh xã hội và môi trường”.
Cụ thể, tốc độ tăng giá trị gia tăng lĩnh vực lâm nghiệp giai đoạn 2021 - 2023 đạt bình quân 4,6%/năm, đạt 92% kế hoạch đề ra. Kim ngạch xuất khẩu gỗ và lâm sản giai đoạn này đạt bình quân 15,8 tỷ USD/năm, đạt 88% kế hoạch. Về nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ, năm 2021 đạt khoảng 2,93 tỷ USD; năm 2022 đạt 2,82 tỷ USD, tăng 4,1% so với năm trước; năm 2023 ước đạt 2,191 tỷ USD giảm 27,6% so với năm trước.
Về trồng rừng, giai đoạn 2021 - 2023, diện tích trồng rừng tập trung bình quân đạt 260.400 ha/năm, bằng 113% kế hoạch đến năm 2025, bằng 76% kế hoạch đến năm 2030. Diện tích khoanh nuôi xúc tiến tái sinh giai đoạn 2021-2023 đạt bình quân 136.000 ha/năm, trong đó khoanh nuôi chuyển tiếp chiếm 86%, đạt 136% kế hoạch.
Sản lượng khai thác gỗ giai đoạn 2021 - 2023 đạt bình quân khoảng 32 triệu m3 đạt 91% so với kế hoạch đến năm 2025. Sản lượng khai thác gỗ đã đáp ứng cơ bản nhu cầu nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến gỗ và thị trường lâm sản.
Về diện tích rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững, lũy kế đến hết năm 2023, tổng số chủ rừng là tổ chức đã xây dựng, phê duyệt phương án QLRBV trong cả nước đạt 70% về số lượng chủ rừng và 80% về diện tích. Việt Nam hiện có 465.000 ha rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững, đạt 93,0% mục tiêu về diện tích đến năm 2025 (500.000 ha).
Về chi trả dịch vụ môi trường rừng, giai đoạn 2021 - 2023, thu dịch vụ môi trường rừng bình quân của cả nước đạt 3.650 tỷ đồng/năm, với tổng 3 năm là 10.987 tỷ đồng. Tốc độ tăng bình quân đạt 17%/năm, đạt 345% so với chỉ tiêu kế hoạch của Chiến lược. Riêng năm 2023, cả nước thu được 4.130,4 tỷ đồng từ khoản dịch vụ môi trường rừng, trong đó thu từ dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng là 997,03 tỷ đồng; thu từ các dịch vụ môi trường rừng từ các cơ sở sản xuất thủy điện, nước sạch, công nghiệp, du lịch sinh thái, nuôi trồng thủy sản, khác là 3.133 tỷ đồng (trong đó thu từ cơ sở sản xuất thủy điện chiếm 93%).
Nguồn tiền từ dịch vụ môi trường rừng đã góp phần quản lý bảo vệ hơn 7,3 triệu ha rừng, chiếm 49,6% tổng diện tích rừng toàn quốc. Tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc năm 2021, năm 2022 đạt 42,02%; năm 2023 tiếp tục duy trì ổn định.
Tổng kinh phí huy động thực hiện Chiến lược giai đoạn 2021 – 2023 để thực hiện bảo vệ phát triển rừng khoảng 56.729 tỷ đồng, trong đó ngân sách Nhà nước đạt 12.595 tỷ đồng; nguồn khác là 44.135 tỷ đồng (dịch vụ môi trường rừng đạt 10.987 tỷ đồng, tổ chức cá nhân đầu tư đạt 33.148 tỷ đồng).
Còn nhiều hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, lãnh đạo Cục Lâm nghiệp cũng thẳng thắn thừa nhận việc triển khai thực hiện Chiến lược vẫn còn gặp nhiều hạn chế. Theo đó, quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch rừng còn chồng chéo, chưa thống nhất, thiếu tính đồng bộ. Hầu hết diện tích đất lâm nghiệp do Nhà nước quản lý, diện tích giao cho hộ gia đình, tổ chức và cá nhân còn ít.
Việc quản lý sử dụng rừng và đất lâm nghiệp có phần tách biệt và khép kín đã tạo ra rào cản cho việc tổ chức các hoạt động sản xuất lâm nghiệp khác như trồng rừng, khai thác, chế biến gỗ và lâm sản, gây cản trở cho việc thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư vào việc bảo vệ và phát triển rừng.
Tình trạng vi phạm các quy định, pháp luật về lâm nghiệp vẫn còn diễn ra tại một số vùng, điểm nóng, bao gồm phát nương làm rẫy, khai thác rừng trái phép, săn bắn động vật hoang dã, cháy rừng làm suy giảm diện tích và chất lượng rừng…
Theo Cục Lâm nghiệp, công tác giao rừng, thuê rừng chưa đồng bộ với giao đất, thuê đất lâm nghiệp; phần lớn các hộ gia đình, cá nhân ở một số tỉnh chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp để phát triển sản xuất lâm nghiệp lâu dài ổn định. Công tác giao đất, giao rừng triển khai chậm, do thiếu nguồn kinh phí để thực hiện, dẫn đến còn nhiều diện tích rừng tự nhiên chưa có chủ nên UBND cấp xã đang phải quản lý và tổ chức khoán cho cộng đồng địa phương bảo vệ.Ngành công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản phát triển chưa bền vững, chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, khả năng dẫn dắt, làm chủ thị trường nội địa và mở rộng thị trường quốc tế còn hạn chế; khả năng hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị, gắn với vùng nguyên liệu còn chưa chặt chẽ…
Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất lâm nghiệp, theo ông Nguyễn Văn Tiến, Phó chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cho rằng, cần sớm hoàn thiện quy hoạch lâm nghiệp, đảm bảo tính thống nhất với quy hoạch sử dụng đất theo 3 cấp: cả nước, cấp tỉnh và cấp huyện; phân bổ hợp lý quỹ đất cho phù hợp với yêu cầu sử dụng đất và quản lý chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất lâm nghiệp.
Đồng thời, ông đề xuất cần tăng cường khả năng tiếp cận đất đai của các chủ thể có nhu cầu sản xuất kinh doanh lâm nghiệp; bổ sung đối tượng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất lâm nghiệp, mở rộng đối tượng là tổ chức kinh tế, cá nhân được nhận chuyển nhượng, cho thuê đất lâm nghiệp phù hợp với thực tiễn sản xuất của từng vùng, miền.
Còn theo PGS-TS. Nguyễn Bá Ngãi, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội chủ rừng Việt Nam (VIFORA) nhấn mạnh để tiếp tục thực hiện hiệu quả “Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030”, cần quản lý và sử dụng có hiệu quả trên 3,4 triệu ha rừng và đất lâm nghiệp đang được UBND cấp xã quản lý, bảo vệ bằng được diện tích rừng hiện có và phát triển rừng; giải quyết thiếu đất sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho đồng bào dân tộc tại chỗ, tăng cường quản lý chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích khác./.