Ngành lúa gạo Việt Nam vững tin trước áp lực từ thị trường toàn cầu nhờ lộ trình chuyển đổi bền vững

Ngay từ đầu năm 2025, thị trường lúa gạo toàn cầu biến động. Hàng loạt các chính sách mới được thực thi đã gây sức ép không nhỏ đến ngành lúa gạo Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gạo tự tin cho rằng, do 80% gạo xuất khẩu của Việt Nam ở phân khúc chất lượng cao nên mức độ ảnh hưởng về giá do gạo của Ấn Độ quay trở lại thị trường chỉ là tạm thời.
thi-truong-xuat-khau-gao-3-1741577938.jpg
Ngay từ đầu năm 2025, thị trường lúa gạo toàn cầu biến động. Hàng loạt các chính sách mới được thực thi đã gây sức ép không nhỏ đến ngành lúa gạo Việt Nam. (Ảnh minh họa)

Nhận diện sức ép đến ngành lúa gạo Việt Nam và lộ trình chuyển đổi phù hợp

Đầu năm 2025, nguồn cung cho thị trường lúa gạo thế giới tăng kỷ lục, đạt 532,7 triệu tấn (theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, tháng 2/2025), khi Ấn Độ – nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới – đã dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu, tạo sức ép mạnh mẽ với các nhà xuất khẩu khác như Việt Nam, Thái Lan, nhất là ở phân khúc chất lượng thấp.

Bên cạnh đó, yêu cầu từ các thị trường xuất khẩu lớn như EU, Mỹ về phát triển bền vững, giảm phát thải và truy xuất nguồn gốc đòi hỏi ngành lúa gạo phải chuyển đổi mạnh mẽ từ sản xuất truyền thống sang sản xuất xanh, thông minh.

Thực tế trên đã gây sức ép không nhỏ đến ngành lúa gạo Việt Nam ngay từ đầu năm 2025, khi ước kim ngạch xuất khẩu 2 tháng đầu năm đạt 1,1 triệu tấn (tăng 5,9%), giá trị đạt 613 triệu USD (giảm 13%).

Cơ cấu xuất khẩu gạo Việt Nam: Gạo trắng (tỷ trọng khoảng 71%, giá trung bình 523 - 540 USD/tấn) chủ yếu xuất khẩu sang Philippines, Indonesia, và châu Phi; Gạo thơm như Jasmine, Đài Thơm, ST24, ST25 (tỷ trọng 19%, giá 640-700 USD/tấn), chủ yếu xuất khẩu sang EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc, và Nhật Bản. Gạo nếp (chiếm 6%) xuất khẩu sang Trung Quốc, Philippines, và một số nước Đông Nam Á khác. Gạo Japonica và gạo đặc sản khác (tỷ trọng 4%) chủ yếu tiêu thụ tại Nhật Bản, Hàn Quốc và thị trường cao cấp khác.

Lãnh đạo nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gạo cho biết, do 80% gạo xuất khẩu của Việt Nam ở phân khúc chất lượng cao nên mức độ ảnh hưởng về giá do gạo của Ấn Độ quay trở lại thị trường (chủ yếu là chất lượng thấp) chỉ là tạm thời.

Mặt khác, nguồn cung nội địa hạn chế (sản lượng 2025 giảm còn 43,14 triệu tấn do hạn mặn tại ĐBSCL) khiến Việt Nam không rơi vào tình trạng bán tháo, giảm áp lực giá trong ngắn hạn. Nhu cầu từ Trung Quốc (5-6 triệu tấn/năm) và Philippines (4,5-4,7 triệu tấn) dự kiến tăng từ quý II/2025 cũng là yếu tố hỗ trợ giá gạo Việt Nam phục hồi.

thi-truong-xuat-khau-gao-1-1741578032.jpg
Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gạo cho biết, do 80% gạo xuất khẩu của Việt Nam ở phân khúc chất lượng cao nên mức độ ảnh hưởng về giá do gạo của Ấn Độ quay trở lại thị trường (chủ yếu là chất lượng thấp) chỉ là tạm thời. (Ảnh minh họa)

Tại hội nghị về sản xuất, thị trường lúa gạo, ngày 7/3, tổ chức ở TP. Cần Thơ, ông Vương Quốc Nam, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng cho biết tình hình tiêu thụ lúa ở địa phương vẫn diễn biến như kỳ vọng, nông dân trồng lúa thơm và lúa đặc sản như ST25 được doanh nghiệp, thương lái mua cao hơn cùng kỳ.

Ông Trần Tấn Đức, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Lương thực miền Nam (Vinafood 2) Năm nay các DN không có hợp đồng gối đầu, tình hình thị trường lúa gạo hiện nay là bình thường theo cung cầu thị trường lúa gạo thế giới. Dự báo trong thời gian tới, giá lúa gạo sẽ tăng dần trở lại.

Còn ông Nguyễn Ngọc Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho rằng, năm 2023 Việt Nam xuất khẩu trên 8 triệu tấn, năm 2024 đạt khoảng 9 triệu tấn. Điều này khẳng định, các doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động tìm kiếm thị trường, lượng lúa hàng hóa sản xuất ra nên không lo ngại vấn đề tiêu thụ.

Ông Lê Thanh Tùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam thông tin thêm, việc tăng hay giảm không phải là việc thiếu hụt gạo hoặc quá dư thừa mà là những tình huống về mặt mùa vụ của khu vực. Những tháng đầu năm, doanh nghiệp xuất khẩu gạo đang rất tích cực mua.

Trao đổi về các giải pháp để chặn đà giảm, giữ ổn định và kéo giá gạo tăng trở lại, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy cho rẳng, thứ nhất là cần tính toán giải pháp cho câu chuyện nâng cao năng lực hệ thống kho chứa để thu mua tích trữ trong lúc cao điểm.

Thứ hai, là hạn ngạch cho vay để doanh nghiệp thu mua dự trữ hiện đang ngắn, lãi suất chưa thực sự hấp dẫn. Do đó, Ngân hàng Nhà nước và các doanh nghiệp cần làm rõ thêm nhu cầu nguồn vốn tín dụng để đáp ứng năng lực dự trữ hiện tại.

Thứ ba là các địa phương phải tăng cường thanh tra, kiểm tra; xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng thời điểm khó khăn để ép giá nông dân.

Thứ tư là để ổn định thị trường về lâu dài, các doanh nghiệp xuất khẩu đầu mối phải có chuỗi liên kết với bà con nông dân, từ việc sản xuất đến thu mua, xay xát, chế biến, xuất khẩu. Tức là hình thành các chuỗi, doanh nghiệp phải có quy mô lớn, đảm bảo năng lực về vốn, hệ thống kho lưu trữ, có hệ thống “cánh tay nối dài” là các HTX để thu mua, vận chuyển.

Trong khi đó, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân khẳng định, với vai trò quản lý nhà nước, Bộ cam kết đẩy mạnh các giải pháp xúc tiến xuất khẩu gạo để sớm tháo nút thắt cho mặt hàng này. Được biết, Bộ Công Thương đã đưa ra các giải pháp trọng tâm nhằm hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu và nông dân trồng lúa như tổ chức các đoàn xúc tiến thương mại tại các thị trường xuất khẩu gạo truyền thống (như Philippines, Indonesia, Trung Quốc), cũng như tiềm năng; theo dõi sát tình hình thị trường, thương mại lúa gạo toàn cầu và các thị trường truyền thống, cũng như của các đối thủ cạnh tranh để kịp thời có giải pháp phù hợp.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân cũng thông tin thêm, ngay đầu năm 2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định 01 sửa đổi Nghị định 107 ngày 15/8/2018 về kinh doanh xuất khẩu gạo. Trong đó, quy định trách nhiệm của thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo báo cáo về lượng thóc, gạo thực tế tồn kho theo từng chủng loại cụ thể hàng tháng cho Bộ Công Thương, Sở Công Thương nơi thương nhân có trụ sở chính, có kho, có cơ sở xay, xát hoặc chế biến thóc, gạo và Hiệp hội Lương thực Việt Nam.

Giá gạo ổn định quanh mức từ 400- 450 USD/tấn, sẽ có lợi cho cả nước xuất khẩu và nước tiêu thụ gạo

Về diễn biến thị trường gạo sau các động thái thay đổi chính sách của Ấn Độ, thông tin trên VOV, ông Bùi Trung Thướng, Tham tán, Trưởng Văn phòng Thương vụ, Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ cho rẳng: Theo nghiên cứu của chúng tôi, giá gạo của hầu hết các nước trong đó có Việt Nam, Thái Lan đều giảm. Đặc biệt, giá gạo của Việt Nam giảm nhiều nhất, đến 43%. Giá gạo của Thái cũng giảm, khoảng 30%. Giá gạo Ấn Độ cơ bản cũng giảm. Nhưng chúng ta phải nhìn vào số liệu trước khi Ấn Độ ban hành các lệnh cấm xuất khẩu. Cần thấy rằng gạo xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua luôn đứng ở mức 380- 440 USD/tấn (gạo 5% tấm), hơn 400 USD/tấn (gạo 25% tấm). Con số này phản ánh đúng vị trí của gạo Việt Nam.

Chúng ta phải coi việc Ấn Độ cấm xuất khẩu và giá gạo tăng mạnh là điều bất thường. Và bây giờ giá gạo trở lại quỹ đạo bình thường, chúng ta nên duy trì ở mức giá như thế này. Việt Nam không phải nước xuất khẩu gạo quá nhiều. Hàng năm chúng ta xuất khẩu khoảng 6 triệu tấn. Diện tích gieo trồng chúng ta cũng không thể tăng nữa. Vì thế, duy trì ở mức giá này là phù hợp. Chúng ta cần nghiên cứu chính sách phát triển bền vững.

Ông Bùi Trung Thướng cũng nhận định: Ấn Độ trước đây từng xuất khẩu 23 triệu tấn gạo/năm. Dự kiến trong năm nay, họ cũng xuất khẩu khoảng 23- 24 triệu tấn gạo. Điều này đã trở thành bình thường, không có đột biến lớn. Xu hướng giá gạo năm nay phụ thuộc vào nhu cầu của thị trường toàn cầu. Tôi nghĩ rằng tổng kim ngạch xuất khẩu sẽ không tăng nhiều, tổng lượng gạo tiêu dùng cũng sẽ không có biến đổi nhiều.

Giá cả biến động sẽ phụ thuộc vào thương nhân xuất khẩu. Ấn Độ trong năm nay sẽ không có các cuộc bầu cử lớn, do vậy họ sẽ không có các chính sách bất thường. Tuy nhiên, nhu cầu gạo tiêu thụ trong nước của Ấn Độ vẫn lớn. Thứ hai, Ấn Độ đang định hướng sản xuất và chiết xuất các chế phẩm từ gạo, ví dụ như chiết xuất thành ethanol.

Vì vậy, lượng gạo Ấn Độ tiêu dùng trong nước vẫn nhiều. Tình hình sẽ không tới mức là Ấn Độ thừa quá nhiều gạo để xuất khẩu ra toàn thế giới với giá rẻ. Xu hướng đó sẽ không xảy ra. Với hai yếu tố này, tôi nghĩ rằng sẽ không có lý do gì để giá gạo giảm sâu hơn nữa. Như tôi đã nói, giá gạo sẽ ổn định quanh mức từ 400- 450 USD/tấn. Điều này sẽ có lợi cho tất cả, cả nước xuất khẩu và nước tiêu thụ gạo.

Vấn đề lớn nhất theo chúng tôi quan sát là việc Ấn Độ duy trì, kiểm soát sản lượng diện tích gieo trồng. Việc thu mua và dự trữ gạo theo một hệ thống thống nhất của chính quyền trung ương Ấn Độ. Họ sẽ hỗ trợ bà con nông dân từ khi gieo trồng, sản xuất, thu hoạch, và đảm bảo lượng và giá cả khi thua mua, xuất khẩu. Đây là cách quản lý thống nhất mà Việt Nam cũng nên học hỏi mô hình này để tránh biến động lớn.

thi-truong-xuat-khau-gao-4-1741578101.jpg
Trong Chính sách Tài chính năm 2025- 2026, Chính phủ Ấn Độ đã mở rộng việc cấp Chỉ dẫn địa lý (GI) cho những mặt hàng gạo. Từ đó, họ khẳng định được các thương hiệu của gạo Ấn Độ. (Ảnh minh họa)

Để thích ứng với những diễn biến mới, theo ông Bùi Trung Thướng: Doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam đã làm tốt công việc của mình để duy trì vị trí nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới trong cả chục năm qua. Thời gian gần đây, có hai sự biến động. Thứ nhất là biến động bên ngoài do chính sách xuất khẩu của Ấn Độ thay đổi. Thứ hai là số lượng thương nhân tham gia thu mua, xuất khẩu gạo Việt Nam có thể đã tăng lên, dẫn đến sự xáo trộn. Trong thời điểm giá gạo thế giới có những biến động, có thể có những nhà đầu cơ tham gia vào thị trường khiến biến động càng lớn hơn.

Trong thời gian tới chúng ta cần đưa mặt hàng gạo vào danh mục được tự do xuất khẩu nhưng phải chịu sự kiểm tra, giám sát nhất định. Chúng ta phải đảm bảo những người tham gia và thị trường này vì mục tiêu lợi nhuận nhưng cũng phải vì lợi ích chung của bà con nông dân, của cộng đồng người tiêu dùng Việt Nam.

Chúng ta có thể học ở Ấn Độ. Một mặt Ấn Độ duy trì phát triển những sản phẩm, giống lúa gạo chất lượng. Mặt khác, họ cũng nghiên cứu phát triển những giống lúa mới, thích ứng. Gần đây nhất, trong Chính sách Tài chính năm 2025- 2026, Chính phủ Ấn Độ đã mở rộng việc cấp Chỉ dẫn địa lý (GI) cho những mặt hàng gạo. Từ đó, họ khẳng định được các thương hiệu của gạo Ấn Độ. Chỉ dẫn địa lý là một trong những xác nhận gián tiếp để khẳng định nguồn gốc xuất xứ, thương hiệu của hàng hóa, đưa giá trị lên và người ta có thể bán với giá cao hơn. Việt Nam có thể học hỏi được ở đó.

Thứ hai, chúng ta phải tích cực mở rộng thị trường. Thời gian vừa qua, chúng ta mới chỉ tập trung xuất khẩu qua kênh Chính phủ với Chính phủ. Nhưng thị trường rất rộng lớn, nhu cầu của doanh nghiệp, của người dân ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là những thị trường có nhu cầu thấp hơn như châu Phi vẫn còn rất rộng lớn. Chúng ta phải có chiến lược. Đối với những thị trường cao cấp như châu Âu, Nhật Bản chúng ta vẫn phải duy trì. Mặc dù, số lượng xuất khẩu thời gian đầu không nhiều nhưng doanh nghiệp vẫn phải cố gắng giữ thị trường đó. Chúng ta phải đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, không chỉ qua kênh Chính phủ với Chính phủ mà còn nhiều kênh khác.

Ngoài ra, chúng ta có thể học từ Ấn Độ việc tìm tòi nâng giá trị sản phẩm gạo lên, trong bối cảnh thị trường đầy biến động. Ví dụ như chiết xuất các sản phẩm dầu gạo hoặc các sản phẩm ethanol, phục vụ các ngành công nghiệp dược phẩm, thực phẩm./.

Trọng Bình