
Doanh nghiệp chịu tác động kép từ chuyển đổi xanh
Chuyên gia nhận định, các thỏa thuận xanh của EU đặt ra những thách thức lớn cho xuất khẩu Việt Nam, song về lâu dài, việc thực hiện chủ động chuyển đổi xanh tạo ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng thị trường sản phẩm xanh, bền vững...
Với tác động tích cực có ý nghĩa của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- EU (EVFTA), triển vọng xuất khẩu sang thị trường EU ngày càng lớn mạnh, kéo theo đó là triển vọng thu nhập gia tăng của hàng chục triệu lao động tham gia chuỗi sản xuất, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, hướng đến nền kinh tế xanh, tuần hoàn tại Việt Nam.
Các chính sách này không chỉ tập trung vào mục tiêu giảm phát thải, mà còn đặt ra nhiều tiêu chuẩn khắt khe trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường, yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu phải thay đổi phương thức sản xuất và cách tiếp cận để đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao về môi trường.
Theo các chuyên gia, chuyển đổi xanh không chỉ nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế mà còn tạo cơ hội để hàng hoá Việt Nam giữ vững và mở rộng thị trường trong nước.
Không chỉ có vậy, chuyển đổi xanh còn được cho là kênh đầu tư hiệu quả và tạo điều kiện vật chất giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, cải thiện môi trường đầu tư và thu hút các nguồn công nghệ sạch và nâng cao sức cạnh tranh kinh tế cả vĩ mô và vi mô, trước mắt và lâu dài. Đồng thời, tạo cơ hội cho doanh nghiệp gia tăng động lực phát triển nhanh hơn và hội nhập tốt hơn vào các chuỗi cung ứng toàn cầu.

Tuy nhiên, hiện 90% doanh nghiệp trong nước là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), việc tham gia quá trình chuyển đổi xanh đang gặp nhiều khó khăn từ nhận thức, nguồn nhân lực, công nghệ đến tài chính. Trong đó, rào cản lớn nhất là vấn đề tài chính khi theo thống kê, khoảng 65% doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay để thực hiện các dự án xanh dù đã có cơ chế hỗ trợ tài chính.
Ông Hoàng Dương Tùng - Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam cho biết, thiếu cơ chế rõ ràng khiến doanh nghiệp chưa biết nên đầu tư vào lĩnh vực nào, lựa chọn công nghệ nào hay có thể vay vốn từ đâu để thực hiện chuyển đổi xanh đang là rào cản đối với doanh nghiệp Việt.
TS. Nguyễn Quốc Việt, chuyên gia kinh tế, giảng viên Trường Đại học Kinh tế cho rằng, tham gia vào chuyển đổi xanh các doanh nghiệp đối mặt với nhiều thách thức. Doanh nghiệp quy mô lớn, đặc biệt trong các khu công nghiệp có cơ hội tiếp cận các nguồn vốn quốc tế như tín dụng xanh hay phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, rủi ro tỷ giá là một trong những trở ngại đáng kể. Khi đồng nội tệ biến động mạnh, chi phí trả nợ gia tăng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả tài chính của dự án. Còn ở cấp độ vi mô, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ, hàng triệu hộ kinh doanh nhỏ và hộ nông dân vẫn đang gặp nhiều trở ngại trong việc tiếp cận tín dụng. Các khoản vay nhỏ lẻ, thiếu bảo đảm, trong khi nhu cầu vốn lại lớn và ngày càng tăng.

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường bất cập hiện nay là nhiều danh mục dự án xanh mới chỉ mang tính chất tham khảo, thiếu cơ sở phân loại theo các tiêu chí sàng lọc hoặc chuẩn mực quốc tế. Các ngân hàng cũng gặp khó khăn khi cấp vốn cho các dự án thân thiện với môi trường vì chưa có bộ tiêu chí rõ ràng.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã trình Thủ tướng Chính phủ Dự thảo Quyết định ban hành tiêu chí môi trường đối với dự án đầu tư được cấp tín dụng xanh và phát hành trái phiếu xanh, làm cơ sở pháp lý để đánh giá, xác nhận và thúc đẩy phát triển các dự án có lợi ích môi trường rõ ràng, minh bạch.
TS. Trần Công Thắng - Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, chuyển đổi xanh đòi hỏi nguồn vốn lớn để đầu tư vào công nghệ, máy móc và quy trình sản xuất mới. Nếu không có sự hỗ trợ từ chính sách hoặc các nguồn tài chính ưu đãi, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ khó có khả năng thực hiện. Khi có những chính sách hỗ trợ phù hợp, doanh nghiệp sẽ có thêm động lực để mạnh dạn chuyển đổi và phát triển bền vững.
Tuy nhiên, ông Thắng nhấn mạnh, một trở ngại không nhỏ là vấn đề tư duy trong mỗi doanh nghiệp, người lao động. Doanh nghiệp phải chủ động và có tầm nhìn xa trong việc đổi mới công nghệ. Chính sách thị trường có thể thay đổi bất cứ lúc nào, và nếu không có sự chuẩn bị trước, doanh nghiệp sẽ rơi vào thế bị động. Việc đầu tư công nghệ đòi hỏi chi phí lớn, nhưng nếu không chuyển đổi sớm, doanh nghiệp có thể mất đi cơ hội cạnh tranh.
Cần có hành lang pháp lý rõ ràng, đồng bộ và những cơ chế hỗ trợ thực chất
Từ hoạt động thực tế, nhiều ý kiến cho rằng, để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh, các đơn vị cần có một cách tiếp cận đa chiều nhằm hỗ trợ nền kinh tế dịch chuyển từ mô hình truyền thống sang nền kinh tế xanh. Đặc biệt, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và chính sách một cách rõ ràng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp.
Theo đại diện doanh nghiệp, chuyển đổi xanh là điều tất yếu, nhưng muốn doanh nghiệp thực hiện hiệu quả và bền vững, cần có hành lang pháp lý rõ ràng, đồng bộ và những cơ chế hỗ trợ thực chất. Chính phủ sớm ban hành lộ trình và thời hạn cụ thể đối với việc cấm hoặc hạn chế sử dụng các sản phẩm không thân thiện với môi trường, thay vì chỉ dừng lại ở các chiến dịch kêu gọi tự nguyện.
TS. Nguyễn Quốc Việt cho rằng, hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế tài chính của Chính phủ, đặc biệt là các chính sách về bảo lãnh tín dụng và huy động vốn, là yếu tố then chốt để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững. Để chính sách thực sự hiệu quả, cần bắt đầu từ việc phân loại đặc điểm và mô hình của các dự án, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp với từng nhóm đối tượng.
“Việc xây dựng cơ chế bảo lãnh rủi ro tỷ giá hoặc hỗ trợ tài chính từ Nhà nước là cần thiết để giúp doanh nghiệp yên tâm mở rộng đầu tư. Tuy nhiên, bản thân doanh nghiệp cũng cần chủ động triển khai các biện pháp quản trị rủi ro tài chính, chẳng hạn sử dụng công cụ phái sinh hoặc bảo hiểm tỷ giá”, ông Việt nhấn mạnh.
Chuyển đổi xanh là một xu thế không thể trì hoãn. Nhà nước cần mạnh dạn hơn trong việc ban hành các chính sách cụ thể và hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi. Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần chủ động nắm bắt cơ hội, đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực quản lý để sẵn sàng tham gia vào nền kinh tế xanh toàn cầu. Sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, ngân hàng và các tổ chức tài chính sẽ là chìa khóa giúp Việt Nam thực hiện thành công mục tiêu phát triển bền vững, hướng tới một nền kinh tế xanh hiện đại và hiệu quả”, vị chuyên gia này bày tỏ.

Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã có công điện số 17/CĐ-TTg về việc tích cực, chủ động triển khai các giải pháp thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, sản xuất và tiêu dùng bền vững, thương mại bền vững đáp ứng các chính sách xanh của Liên minh Châu Âu.
Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi xanh, đẩy mạnh xuất khẩu và chuỗi bễn vững đáp ứng các quy định, chính sách xanh của EU và các cam kết phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn và biến đổi khí hậu của Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ, cơ quan liên quan, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp chủ động tổ chức triển khai thực hiện tích cực, hiệu quả, đồng bộ nhiệm vụ, giải pháp đã được giao tại các Nghị quyết của Chính phủ, các văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn, sản xuất và tiêu dùng bền vững, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh.
Thủ tướng yêu cầu Bộ trưởng Bộ Công Thương đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện các chính sách, quy định, tiêu chuẩn phù hợp các cam kết, quy định, tiêu chuẩn quốc tế về phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn; tập trung ưu tiên nghiên cứu các quy định, tiêu chuẩn liên quan kinh tế tuần hoàn, thiết kế sinh thái, quản lý hóa chất độc hại, quản lý chất thải và các quy định về hàm lượng tái chế đối với một số vật liệu đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn quốc tế.
Cùng với đó tập trung hỗ trợ kỹ thuật về chuyển đổi xanh nhằm thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi sang mô hình sản xuất, kinh doanh bền vững; áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn và sử dụng hiệu quả tài nguyên, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, khuyến khích sử dụng nguyên vật liệu tái chế, năng lượng tái tạo;
Hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng các giải pháp thiết kế đổi mới sản phẩm để nâng cấp, sửa chữa, bảo trì, tái sử dụng và tái chế, kéo dài vòng đời sản phẩm; đẩy mạnh hỗ trợ áp dụng các công cụ đánh giá vòng đời sản phẩm, kiểm kê phát thải khí nhà kính nhằm đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn, quy định xanh của Liên minh Châu Âu.
Tăng cường nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi số đáp ứng yêu cầu thực tiễn và xu thế phát triển của kinh tế số và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; chú trọng nghiên cứu và phát triển các nguyên, nhiên vật liệu mới, tái chế, tái tạo; các hóa chất xanh, thân thiện môi trường nhằm tạo ra các sản phẩm bền vững.
Công điện cũng yêu cầu xây dựng, hỗ trợ các hoạt động chứng nhận, dán nhãn sinh thái đối với các sản phẩm bền vững đáp ứng yêu cầu thị trường và các quy định quốc tế; thúc đẩy xúc tiến thương mại, tổ chức các hội chợ xanh nhằm kết nối cung cầu các sản phẩm bền vững, các sản phẩm được dán nhãn sinh thái; thúc đẩy liên kết bền vững giữa các bên trong chuỗi, hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước tham gia các chuỗi bền vững trong nước và toàn cầu.
Đồng thời nâng cao năng lực, đào tạo phổ biến các quy định chính sách pháp luật trong nước và quốc tế; hướng dẫn doanh nghiệp xây dựng báo cáo phát triển bền vững, thực hiện quản trị môi trường xã hội đáp ứng yêu cầu quốc tế về báo cáo thông tin liên quan đến môi trường, phát thải khí nhà kính, các quy định, thủ tục quốc tế về khai báo, thông tin về các yếu tố "xanh, bền vững, hữu cơ" của sản phẩm; các quy định về hộ chiếu sản phẩm kỹ thuật số.
Rà soát, nghiên cứu các chính sách xanh tại Thỏa thuận xanh Châu Âu để kịp thời phổ biến, hướng dẫn và hỗ trợ doanh nghiệp.
Đặc biệt, để hỗ trợ các chương trình chuyển đổi của các doanh nghiệp theo hướng xanh và bền vững, Chính phủ, Bộ Công Thương đã xây dựng và triển khai nhiều chương trình hỗ trợ trực tiếp như: Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, giai đoạn 2019 – 2030; Chương trình quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững, giai đoạn 2021 – 2030; Kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh đến năm 2030 có tính đến năm 2050./.