Gỡ nút thắt logistics khu vực Đồng bằng sông Cửu Long

Để phát triển kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), vấn đề cấp bách là cần tận dụng lợi thế nguồn hàng hóa nông sản, tập trung tăng cường liên kết vùng để tạo điều kiện thông thương hàng hóa một cách nhanh nhất.

ĐBSCL được thiên nhiên ưu đãi về lợi thế tự nhiên, được xem là nguồn nông thủy sản lớn của đất nước, trong đó sản lượng gạo chiếm 90%, trái cây xuất khẩu chiếm 70% và thuỷ sản chiếm 65%. Đặc biệt, ĐBSCL có hệ thống sông ngòi, kênh rạch dài hơn 28.000 km, trong đó có 13.000 km phục vụ cho vận tải đường thủy.

Bên cạnh đó, tuyến đường bộ đi từ ĐBSCL đi ra vùng Đông Nam Bộ cũng như các tỉnh thành trên cả nước cũng rất phát triển, hệ thống cảng nhiều ở khu vực nhiều ở khu vực sông Tiền, sông Hậu. Tuy nhiên, chuỗi logistics ở ĐBSCL chưa phát triển do một số nút thắt.

Cụ thể: Thứ nhất, giai đoạn 2011-2021, ngân sách đầu tư cho đường thủy nội địa trong tổng ngân sách đầu tư giao thông giảm 2-3% và giai đoạn 2016 – 2020 tiếp tục giảm, chỉ còn 1,2%. Sự đầu tư về giao thông vận tải ở khu vực ĐBSCL này chưa tương xứng so với tiềm năng. Thứ hai, sự liên kết, tích hợp giữa Nhà sản xuất, chế biến – Kho – Bãi – Cảng – Vận tải là yếu tố cực kỳ quan trọng.

Thứ ba là sự đầu tư phát triển trung tâm logistics trọng điểm. Hiện 70-75% lượng hàng xuất khẩu của khu vực ĐBSCL phải vận chuyển lên cụm cảng khu vực TP HCM và Cái Mép - Thị Vải, điều này gây tốn thời gian và chi phí tăng cao, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh hàng hóa trên thị trường.

Thứ tư là chính sách hỗ trợ phát triển chuỗi dịch vụ logistics lạnh/mát. Chi phí đầu tư và vận hành các kho lạnh rất cao, ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư của các doanh nghiệp. Đặc biệt chi phí điện - cấu thành rất lớn trong tổng chi phí vận hành của các doanh nghiệp kho lạnh - đang áp dụng tính theo giá điện kinh doanh cao hơn gần 60% so với giá điện sản xuất.

Cuối cùng là sự phụ thuộc mùa vụ của chuỗi logistics ngành hàng thủy sản. Hoạt động của chuỗi cung ứng thuỷ sản phụ thuộc rất lớn vào tính mùa vụ. Đặc điểm vùng miền, hoạt động quảng bá, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh, mạnh của khu vực.

cang-long-an-1669628323.jpg
Cảng quốc tế Long An. Ảnh Vĩnh Hảo.

Để phát triển logistics cho ngành thủy sản, bà Trương Thị Kim Liên, Đại diện CTCP Mekong Logistics đã đưa ra một số giải pháp tối ưu cho ngành thủy sản. Cụ thể với các cơ quan ban ngành, bà Liên kiến nghị cần có sự kết nối giữa các hiệp hội thuộc ngành thủy sản, Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA), Viện Nghiên cứu và Phát triển logistics Việt Nam (VLI)… tìm đầu ra cho các công ty xuất khẩu nông sản.

Ngoài ra, bà Liên đề xuất cơ quan quản lý giảm lãi suất ngân hàng cho các doanh nghiệp logistics, nâng cấp hệ thống giao thông và giảm giá điện cho các công ty cung cấp dịch vụ kho lạnh.

Với các công ty logistics, Đại diện CTCP Mekong Logistics cho rằng, doanh nghiệp cần đưa ra những giải pháp tối ưu nhất cho từng khách hàng. Nhanh chóng khảo sát để mở tuyến đường vận chuyển trực tiếp từ Cái Mép.

Một yếu tố quan trọng khác là sự đồng thuận, ủng hộ của các doanh nghiệp xuất/nhập khẩu trong chuỗi logistics. Hiện các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường sử dụng phương thức nhanh, nhỏ lẻ, ít tập trung ở khu vực Cần Thơ.

Do đó, các doanh nghiệp cần thay đổi cách thức sử dụng phương thức vận chuyển, tập trung về bãi tập kết tại các cảng ở khu vực Cần Thơ sau đó lên tàu đi thẳng ra Cái Mép, tiết kiệm chi phí rất nhiều.

Trước đó, tại Diễn đàn “Hoàn thiện chuỗi dịch vụ logistics cho nông sản Đồng bằng sông Cửu Long” Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cũng đã đề xuất 5 giải pháp để phát triển logistics cho vùng. Thứ nhất, cần nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, tập trung vào quy hoạch logistics toàn vùng, hoàn thiện thể chế, chính sách để tháo gỡ khó khăn, thu hút đầu tư trong hoạt động logistics, đặc biệt là hoạt động đầu tư của các chủ dự án; tạo cơ chế cho nhà đầu tư; thúc đẩy đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông vận tải vùng ĐBSCL giai đoạn 2022 - 2025; điều chỉnh việc phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư công; xúc tiến đầu tư theo hợp tác công tư.

Giải pháp thứ hai là hoàn thiện đồng bộ kết cấu hạ tầng phục vụ logistics như đẩy mạnh đầu tư, tận dụng lợi thế sẵn có của phương thức vận tải đường thủy; cải tạo, nâng cấp các luồng tàu biển chính trong khu vực; phát triển cảng biển gắn với các trung tâm sản xuất hàng hóa, kêu gọi đầu tư cảng ngoài khơi để đảm nhận vai trò cảng cửa ngõ, đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu trực tiếp cho vùng.

Thứ ba là đẩy mạnh phát triển những trung tâm logistics phục vụ hàng nông sản với những dịch vụ chủ yếu như vận tải, kho hàng, bảo quản hàng hóa và các dịch vụ giá trị gia tăng. Thứ tư, tăng cường liên kết giữa các bên trong chuỗi cung ứng hàng nông sản: Người nông dân - thương lái - nhà máy chế biến - doanh nghiệp thương mại - doanh nghiệp logistics.

Và cuối cùng, cần nâng cao chất lượng dịch vụ logistics, chất lượng nguồn nhân lực logistics, đẩy mạnh ứng dụng thành tựu cách mạng công nghiệp 4.0, hiện đại hóa trong hoạt động sản xuất, chế biến và hoạt động dịch vụ logistics.

Hương Lan (t/h)