Chỉ giữ được rừng khi người dân sống tốt từ rừng

Chính phủ đã có nhiều chính sách để bảo vệ rừng và phát triển kinh tế rừng. Nhưng định mức hỗ trợ thấp, dẫn tới người dân sống gần rừng chưa sống tốt từ kinh tế rừng.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy Bộ Nông nghiệp-phát triển rừng.jpg
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy phát biểu chỉ đạo tại buổi làm việc với các cơ quan trong lĩnh vực lâm nghiệp ngày 6/3/2025.

Định mức hỗ trợ bảo vệ rừng còn thấp

Hiện nay có khoảng 25 triệu người Việt Nam có 20-40% thu nhập hằng năm đến từ rừng. Vai trò của rừng cũng được thể hiện ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao nơi 10% dân cư sống bên trong hoặc gần các khu rừng (diện tích xấp xỉ 12 triệu hecta) là người nghèo hoặc người dân tộc thiểu số. Vì vậy, để công tác bảo vệ rừng hiệu quả cần kêu gọi sự tham gia từ những hộ mà sinh kế của họ phụ thuộc vào rừng.

Chính sách khoán bảo vệ rừng đã được triển khai tại Việt Nam từ những năm 1990, với mục tiêu giao khoán rừng cho các hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư thôn, bản để bảo vệ và phát triển rừng. Theo đó, ngân sách nhà ước sẽ hỗ trợ người nhận khoán bảo vệ rừng; tuy nhiên, định mức hỗ trợ là rất thấp.

Gần đây nhất, ngày 24/5/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 58/2024/NĐ-CP quy định về một số chính sách đầu tư trong lâm nghiệp (Nghị định số 58/2024/NĐ-CP). Theo đó, mức khoán bảo vệ rừng bình quân là 500.000 đồng/ha/năm (đối với khu vực II, khu vực III là 600.000 đồng/ha/năm; khu vực ven biển là 750.000 đồng/ha/năm). Định mức khoán tại Nghị định số 58/2024/NĐ-CP đã được nâng lên so với trước đây. Từ năm 2015 đến trước khi có Nghị định số 58/2024/NĐ-CP, mức tiền khoán bảo vệ rừng chỉ là 400.000 đồng/ha/năm (quy định tại Nghị định số 75/2015/NĐ-CP).

Tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV (tháng 5/2024), đại biểu Quốc hội Hoàng Quốc Khánh (đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lai Châu) cho rằng, mức hỗ trợ này rất thấp và người dân không mặn mà nhận khoán bảo vệ rừng. Ông Khánh chia sẻ, cử tri và địa phương kiến nghị, mức khoán này phải nâng lên ít nhất là 1 triệu đồng/ha/năm, hoặc tốt hơn nữa là 1,5 - 2 triệu đồng/ha/năm để có thể đảm bảo được công tác bảo vệ rừng, chống phá rừng.

Mức khoán bảo vệ rừng thấp tiếp tục được Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy nhắc lại tại cuộc làm việc với ngành Lâm nghiệp ngày 06/3/2025. Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đã thẳng thắn thừa nhận một thực trạng đáng lo ngại: Mức khoán bảo vệ rừng quá thấp, khiến nhiều hộ gia đình không thể đảm bảo cuộc sống.

 “Muốn phát triển lâm nghiệp bền vững, chúng ta phải tạo sinh kế tốt hơn cho người dân sống nhờ rừng. Nếu họ không thể yên tâm với cuộc sống hiện tại, ai sẽ giữ rừng?”, ông Duy đặt vấn đề.

kinh-te-duoi-tan-rung-1741577084.jpg
Nhân rộng các mô hình sản xuất dưới tán rừng (Ảnh minh hoạ).

Khai thác đúng tiềm năng của rừng

Theo ước tính của Cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Việt Nam có 14,6 triệu ha rừng; trong đó rừng tự nhiên đạt gần 10,3 triệu ha, rừng trồng đạt 4,3 triệu ha, tỷ lệ che phủ rừng đạt gần 42%, cao hơn mức bình quân thế giới (29%). Đây là tài nguyên rất lớn để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của những người dân sống gần rừng.

Tuy nhiên, theo ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Nông nghiệp và Môi trường, những tiềm năng này hiện vẫn chưa được khai thác sử dụng theo hướng đa mục đích. Diện tích rừng trồng mặc dù trữ lượng gỗ lớn, nhưng số lượng cơ sở chế biến sâu còn ít. Chi phí vận chyển logistics tăng, giảm giá trị cạnh tranh.

Lâm sản ngoài gỗ đã hình thành một số vùng trồng nguyên liệu tập trung như quế, hồi với diện tích và sản lượng lớn và các loài lâm sản ngoài gỗ khác (dược liệu)… nhưng còn manh mún, thiếu quy hoạch, sản lượng thấp, thiếu các cơ sở chế biến bảo đảm chất lượng, chế biến sâu. Thiếu các sản phẩm đặc trưng, sản phẩm tinh chế có giá trị gia tăng cao mà chủ yếu là các sản phẩm thô.

Là khu vực có nhiều hệ sinh thái rừng đặc trưng, đa dạng sinh học cao, gắn với đa dạng về văn hóa, bản sắc của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, du lịch sinh thái trong rừng còn hạn chế và chưa thu hút được khách du lịch. Chưa tạo được nguồn thu cho các chủ rừng.

Cũng theo ông Phùng Đức Tiến, việc sử dụng hệ sinh thái rừng còn rất đơn lẻ, chưa chú trọng theo hướng đa mục đích, đa giá trị. Do vậy, chưa khai thác được hết các tiềm năng, giá trị nhiều mặt của rừng, đặc biệt là các sản phẩm gắn với đặc trưng văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số.

Trong bối cảnh chính sách khoán bảo vệ rừng chưa đảm bảo thu nhập ổn định cho người nhận khoán và các mô hình kinh tế dưới tán rừng vẫn còn nhỏ lẻ, tín chỉ carbon đã và đang được xem là một hướng đi mới, mang lại nhiều tiềm năng trong tương lai.

Theo ông Trịnh Lê Nguyên, Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên, Chủ tịch Quỹ Bảo tồn động thực vật hoang dã Việt Nam cho biết, rừng tự nhiên không chỉ mang lại giá trị sinh thái mà còn là “ngân hàng carbon” tự nhiên, góp phần quan trọng vào việc giảm thiểu biến đổi khí hậu, mang lại lợi ích kinh tế lớn.

Tại cuộc họp ngày 06/3/2025 với ngành Lâm nghiệp, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy cũng đã nhấn mạnh, nếu biết tận dụng, việc bán tín chỉ cacrbon có thể là nguồn thu lớn giúp người dân gắn bó với rừng mà không cần phá rừng để kiếm sống.

Thực tế cho thấy, Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng lớn trong việc phát triển thị trường tín chỉ carbon, không chỉ vì nguồn lực rừng phong phú, mà còn nhờ vào sự đa dạng của các dự án giảm phát thải trong nông nghiệp, năng lượng tái tạo và quản lý chất thải.

Với tổng diện tích rừng khoảng 14,7 triệu ha, độ che phủ rừng 42%, ước tính mỗi năm rừng Việt Nam hấp thụ trung bình gần 70 triệu tấn carbon (CO2). Thông qua thị trường carbon, rừng có thể mang lại một nguồn thu đáng kể phục vụ công tác quản lý, bảo vệ cũng như nâng cao thu nhập cho các cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng. Tuy nhiên, để tham gia thị trường này, Việt Nam cần có hành lang pháp lý rõ ràng, cơ chế giám sát hiệu quả và các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người dân tham gia./.

Theo số liệu công bố, năm 2024, Việt Nam đã bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon, trị giá khoảng 51,5 triệu USD, cao nhất ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương và đưa Việt Nam vào top 15 quốc gia có khả năng bán tín chỉ carbon trên toàn cầu. Thành công này đã tạo thêm động lực cho quá trình phát triển tín chỉ carbon tại các địa phương, thúc đẩy quá trình phát triển tín chỉ carbon rừng và các kế hoạch tiết kiệm năng lượng.

Trần Huyền