Chè Tán Ma – Hương vị của lòng mến khách nơi bản Thái xứ Thanh

Đối với người Thái, chè Tán Ma không chỉ là một loại cây, một thức uống, mà còn là một phần hồn cốt của bản làng, là "chén trà mời khách quý", là sự khởi đầu cho những câu chuyện bên bếp lửa, gắn kết những mối giao tình lâu dài.
tan-ma-1-1746866007.png
Chè "Tán ma" một giống chè cổ của người dân tộc Thái ở bản vùng cao xứ Thanh (Ảnh TTV)

Câu chuyện từ một loài cây của rừng sâu

Theo tiếng Thái, “Tán Ma” có nghĩa là “khách quý đến nhà”. Tên gọi ấy cũng chính là cách người dân nơi đây thể hiện tấm lòng chân thành, thân thiện của mình. Khi có khách đến chơi nhà, dù mâm cao cỗ đầy hay chỉ vài món mộc mạc, chén trà nấu từ lá chè Tán Ma luôn là món không thể thiếu.

Người Thái vùng cao Quan Sơn kể rằng, cây chè Tán Ma từ lâu đã mọc hoang trong rừng. Trước đây, bà con chỉ hái lá về sao thủ công, nấu uống như trà hằng ngày. Nhưng người nào đến cũng được mời một chén trà nóng, đậm đà hương núi, ấm lòng nghĩa tình. Chính từ thói quen mời trà ấy mà cái tên "Tán Ma" ra đời và gắn liền với món chè bản địa này.

Ngày xưa, khi người Thái sinh sống du canh du cư, mỗi lần di chuyển chỗ ở, họ có thể quên mang theo nhiều thứ, nhưng giống chè Tán Ma thì không bao giờ thiếu. Bà Hà Thị Thảo (sinh năm 1969), người dân bản Phụn, xã Trung Xuân, nhớ lại: "Các cụ trong bản thường nói rằng, chè Tán Ma như báu vật của dân Thái, mỗi lần chuyển bản, dù đi xa mấy, người ta vẫn mang theo cây chè ấy. Nó không chỉ là thức uống mà là tấm lòng mời khách, là món quà quý giá của bản làng".

tan-ma-2-1746866181.jpg
Chè Tán Ma khác với chè xanh thông thường. Búp chè nhỏ, cánh xoăn tự nhiên, có màu nâu sẫm khi phơi khô.

Chè Tán Ma khác với chè xanh thông thường. Búp chè nhỏ, cánh xoăn tự nhiên, có màu nâu sẫm khi phơi khô. Khi pha, nước chè có màu hổ phách hoặc đỏ cam đặc trưng, vị dịu ngọt nơi cuống họng, không chát gắt, không đắng đậm. Điều đặc biệt, chè có mùi thơm thoang thoảng như cỏ cây sau cơn mưa rừng, mang đậm chất hoang dã.

Người Thái không chỉ uống chè Tán Ma như một thú vui, mà còn tin vào giá trị y học của nó. Theo kinh nghiệm dân gian, loại chè này giúp thanh lọc cơ thể, hỗ trợ tiêu hóa, tốt cho tim mạch và huyết áp. Phụ nữ sau sinh, người già hay làm việc nặng nhọc trong rừng đều được khuyên uống chè Tán Ma mỗi ngày để bồi bổ sức khỏe.

Cách chế biến chè cũng rất đặc biệt. Sau khi hái, búp chè được héo tự nhiên dưới bóng râm, sau đó đem vò tay nhẹ nhàng rồi ủ cùng lá cây dáy rừng trong vài tiếng đồng hồ – bước này giúp chè giảm chát và giữ lại mùi thơm đặc trưng. Sau đó, chè được phơi khô dưới nắng nhẹ hoặc sao chảo gang, đóng gói bằng túi giấy, túi vải thân thiện với môi trường.

Người Thái vẫn giữ thói quen uống chè mỗi sáng sớm hoặc khi chiều muộn. Ấm nước sôi trên bếp than, chén trà nhỏ trên tay, bên cạnh là câu chuyện kể từ đời ông bà… Chè Tán Ma không chỉ làm dịu khát, mà còn làm ấm lòng.

Từ món quà quê thành sản phẩm OCOP tiềm năng

Từ một sản vật bản địa khiêm nhường, chè Tán Ma đang dần “vươn mình” trở thành sản phẩm chủ lực ở các bản vùng cao nhờ chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP). Trong vài năm trở lại đây, với sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, các hợp tác xã và hội phụ nữ, nhiều nhóm hộ đã liên kết lại để trồng chè, chế biến và xây dựng thương hiệu chè Tán Ma đạt chuẩn OCOP cấp tỉnh.

tan-ma-1-1746866253.jpg
Bà Hà Thị Thảo (sinh năm 1969), người dân bản Phụn, xã Trung Xuân tỉ mỉ kiểm tra từng mẹt trà.

Tại xã Hiền Kiệt (huyện Quan Hóa), nơi có điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng thuận lợi, bà con đã chuyển từ khai thác tự nhiên sang trồng chè Tán Ma tập trung. Cây chè được nhân giống, trồng ở độ cao trên 700m, nơi có khí hậu mát mẻ, đất đai màu mỡ. Nhờ trồng xen với rừng, cây chè ít sâu bệnh, không cần phân bón hóa học, đáp ứng tiêu chuẩn chè sạch.

Hiện nay, xã Hiền Kiệt đã phát triển được gần 50 ha chè Tán Ma, chủ yếu do các hộ người Thái canh tác. Từ năm 2021, sản phẩm “Chè Tán Ma Hiền Kiệt” đã được chứng nhận đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao cấp tỉnh, mở ra nhiều cơ hội tiêu thụ trong và ngoài tỉnh. Mỗi tháng, người dân có thể chế biến và xuất ra thị trường hàng trăm kg chè khô, với giá bán trung bình 150.000 - 200.000 đồng/kg, mang lại nguồn thu nhập ổn định.

Tại xã Trung Xuân, huyện Quan Sơn, mô hình nhóm sản xuất chè Tán Ma do phụ nữ làm chủ cũng đang hoạt động hiệu quả. Với quy mô 5 ha, hơn 30 thành viên, nhóm không chỉ tổ chức sản xuất bài bản mà còn tham gia các hội chợ OCOP, sự kiện quảng bá sản phẩm nông nghiệp vùng cao. Qua đó, chè Tán Ma được nhiều người tiêu dùng biết đến, trở thành món quà du lịch độc đáo của miền núi xứ Thanh.

tan-ma-2-1746866378.png
Búp chè khô sau khi hái về, được để héo tự nhiên hoặc phơi trong khoảng 30 phút, sau đó, được vò bằng tay.

Không dừng lại ở sản phẩm khô, một số hộ dân còn thử nghiệm sản xuất trà túi lọc, trà hòa tan, trà đóng hộp thủ công với bao bì thân thiện, nhãn mác rõ ràng, giúp mở rộng thị trường tiêu thụ. Một số tour du lịch cộng đồng tại Pù Luông, Sầm Sơn, Mai Châu đã đưa sản phẩm chè Tán Ma vào danh mục quà tặng cho du khách.

Theo chính quyền huyện Quan Sơn, việc phát triển cây chè Tán Ma không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn góp phần bảo tồn tri thức bản địa, nâng cao vai trò của phụ nữ và bảo vệ rừng tự nhiên. Cây chè được trồng xen trong rừng, giữ đất, giữ nước và góp phần tạo sinh kế lâu dài cho người dân vùng cao.

Giữa vòng quay của hiện đại hóa và phát triển nông nghiệp hàng hóa, việc một sản phẩm truyền thống như chè Tán Ma vẫn giữ được nét mộc mạc, thủ công, gắn với đời sống cộng đồng là điều đáng quý. Không phải chỉ vì lợi ích kinh tế, mà còn vì đó là kết tinh của văn hóa, phong tục và lòng mến khách của người Thái xứ Thanh.

Cây chè Tán Ma đã và đang mở ra một hướng đi mới, vừa giữ gìn nét đẹp truyền thống của bàn làng, vừa nâng cao thu nhập, tạo ra sản phẩm đặc trưng cho vùng cao Thanh Hóa. Dừng chân bên bếp lửa, nhấp chén trà Tán Ma, để thấy hương vị của núi rừng, của tấm lòng người vùng cao, lan tỏa một cách chậm rãi mà sâu lắng./.

Hà Khải