Theo Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) tại hội thảo “Thúc đẩy tự do kinh doanh và nâng cao hiệu quả thị trường”, từ năm 2014, cùng với sự ra đời của Nghị Quyết 19, nay là Nghị quyết 02 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, Việt Nam đã xác định cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, hướng tới phát triển bền vững là một trọng tâm cài cách quan trọng, thường xuyên.
Qua 8 năm nỗ lực cải cách hưởng tới thị trường tự do và cải thiện môi trường kinh doanh, vị trí của Việt Nam trên các bảng xếp hạng uy tín toàn cầu đã được “thăng hạng", thứ hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam đã thay đổi vượt bậc, xếp thứ 78 (năm 2014) lên vị trí 6 (năm 2019), chỉ số tự do kinh tế năm 2022 cũng tăng 6 bậc từ vị trí 84 từ vị trí 90.
Tuy nhiên, theo đánh giá của VEPR, trên cơ sở rà soát các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp về cải cách đăng ký tài sản mà Chính phủ đề ra tại các Nghị quyết số 19/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQCP cho thấy rằng hầu hết các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chưa được thực hiện. Do vậy 8 năm qua, kết quả cải cách đăng ký tài sản ở nước ta chậm chuyển biến và cách xa mục tiêu Chính phủ đề ra. Trong 10 lĩnh vực của môi trường kinh doanh thì đăng ký tài sản là lĩnh vực chậm chuyển biến nhất cùng với hai lĩnh vực thuộc trách nhiệm của cơ quan tư pháp, đó là giải quyết tranh chấp hợp đồng và giải quyết phá sản doanh nghiệp.
Chia sẻ sâu hơn về vấn đề này, TS Nguyễn Đình Cung - Nguyên Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước tác động lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi đó, trên bình diện quốc tế, đó là sự suy giảm và suy thoái kinh tế toàn cầu, lạm phát tăng cao, FDI đăng ký và giải ngân vào Việt Nam có thể giảm sút. Khủng hoảng năng lượng, giá năng lượng tiếp tục ở mức cao và đứt gãy nguồn cung năng lượng. Cùng với đó, Trung Quốc vẫn có thể tiếp tục thực hiện chính sách zero COVID. Tất cả những yếu tố này gây bất lợi không nhỏ cho doanh nghiệp và kinh tế Việt Nam.
Còn bối cảnh trong nước cho thấy các động lực tăng trưởng suy giảm, nguy cơ lạm phát cao, bất ổn kinh tế vĩ mô, và hệ quả chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ ưu tiên chống lạm phát làm suy giảm tăng trưởng. Thị trường tài chính nhiễu động mạnh; niềm tin thị trường bị lung lay, thanh khoản thị trường suy giảm và ở mức thấp. Doanh nghiệp đói vốn, tiếp cận vốn khó, thậm chí là không thể dù chấp nhận chi phí vốn cao.
Đặc biệt, đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đang ngày càng trở nên khó khăn hơn, thậm chí khó khăn hơn 10 năm trước. Trong khi đó lại thiếu vắng những cải cách đột phá để cải thiện môi trường kinh doanh, tạo luồng sinh khí mới cho phát triển. Mặt khác, theo phản ánh của doanh nghiệp, quy định và thực thi pháp luật có chiều hướng giảm dần mức độ thuận lợi, tăng mức độ khó khăn, phiền hà, khó tuân thủ cho doanh nghiệp. Có hiện tượng hồi tố pháp luật, áp dụng quy định giai đoạn hiện nay cho 10 năm trước, gây thiệt hại cho doanh nghiệp và người đầu tư.
Bên cạnh đó, TS Nguyễn Đình Cung nhấn mạnh theo kết quả tăng trưởng 9 tháng đầu năm chỉ là nhất thời vì điều này sẽ không còn tiếp tục từ quý IV/2022 và các năm tiếp theo. Do đó, không nên quá lạc quan với những thành tích nhất thời đó. Vì nếu đánh giá quá lạc quan thì chúng ta sẽ nhìn nhận thực tế không đúng. Từ đó có chính sách không phù hợp.
Do đó, TS Nguyễn Đình Cung khuyến nghị, cần thực hiện truyền thông mạnh mẽ và hiệu quả về sự cần thiết phải đẩy mạnh cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh để phục hồi và duy trì tăng trưởng cao và bền vững. Cần nhấn mạnh tới những khó khăn, thách thức hiện tại đối với cải cách, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Ngoài ra, cần truyền thông mạnh mẽ về những chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, những nỗ lực của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương, các thực tiễn tốt trong cải cách cải thiện môi trường kinh doanh, tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi cho đầu tư kinh doanh..