Tháng 1/2022, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về chính sách tài khóa - tiền tệ, hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, trong đó cho phép hỗ trợ lãi suất (2%/năm), quy mô tối đa 40.000 tỷ đồng cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi sau đại dịch COVID-19 và cho vay cải tạo chung cư cũ, xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân.
Tuy nhiên, đến thời điểm này, chính sách hỗ trợ lãi suất 2% một năm qua hệ thống ngân hàng thương mại mới giải ngân được 3,05%, tương đương 1.218 tỷ đồng, số vốn chưa giải ngân còn khoảng 38.800 tỷ đồng.
Doanh nghiệp ngại vay vì lo thanh tra, kiểm tra khi nhận gói hỗ trợ
Lý giải về việc triển khai chính sách chưa đạt mục tiêu, số vốn giải ngân thấp, Chính phủ cho rằng có tâm lý e ngại thanh tra, kiểm tra, mặc dù có những doanh nghiệp đủ điều kiện.
Việc không lựa chọn chính sách do doanh nghiệp cân nhắc giữa lợi ích nhận hỗ trợ lãi suất và chi phí phải chi trả phát sinh. Bởi nếu nhận hỗ trợ lãi suất phải theo dõi hồ sơ, chứng từ, tuân thủ các thủ tục hậu kiểm, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra.
Khách hàng cũng có tâm lý lo ngại trường hợp bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định phải thu hồi số tiền hỗ trợ lãi suất do số tiền này đã được hạch toán vào lợi nhuận doanh nghiệp và chia cổ tức cho cổ đông.
Ngay khi gói hỗ trợ được ban hành, Công ty Sản xuất, chế biến cói xuất khẩu Việt Anh đã từng được giới thiệu vay vốn. Duy trì được đà xuất khẩu ngay sau COVID-19, tự tin đáp ứng tiêu chí "có khả năng phục hồi" theo quy định và liên tục có nhu cầu vay vốn mới, song doanh nghiệp sau đó phải từ bỏ gói hỗ trợ này.
Ông Phạm Minh Tôn - Giám đốc Công ty Sản xuất, chế biến cói xuất khẩu Việt Anh cho biết: "Có rất nhiều thủ tục, chưa nói đến vấn đề sau khi giải ngân, hậu kiểm, kiểm tra kiểm toán, chắc chắn phải dành một nhân sự để chuyên làm hồ sơ, thủ tục trước và sau khi giải ngân."
Doanh nghiệp đã khó tiếp cận thì các hợp tác xã, hộ kinh doanh lại càng khó hơn. Thiếu tài sản thế chấp, không có hóa đơn đỏ theo yêu cầu mà chỉ có hóa đơn bán lẻ, hay dù có khả năng trả nợ nhưng chẳng biết xác định thế nào là "có khả năng phục hồi." Việc triển khai khó khăn nên cứ thế chậm dần và không còn nhận được nhiều sự quan tâm của chính những đối tượng được thụ hưởng chính sách.
Theo khảo sát của VCCI, chỉ có 30% doanh nghiệp hợp tác xã biết tới chính sách này và chỉ có khoảng 2% doanh nghiệp đã nhận được khoản vay theo chương trình, khách quan cho thấy cần đánh giá lại chính sách.
Nguyên nhân do khách hàng đủ điều kiện nhưng lựa chọn không thụ hưởng chính sách, chủ yếu do tâm lý e ngại công tác thanh tra, kiểm tra (đặc biệt là doanh nghiệp), cân nhắc giữa lợi ích từ việc được hỗ trợ lãi suất và chi phí phát sinh nếu nhận hỗ trợ lãi suất (phải theo dõi hồ sơ, chứng từ, tuân thủ các thủ tục hậu kiểm, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền).
Chưa kể việc xác định đối tượng khách hàng thuộc diện "có khả năng phục hồi" theo quy định tại nghị quyết số 43 gặp khó khăn, bởi có trường hợp dù có khả năng trả nợ nhưng khó khẳng định có khả năng phục hồi.
Có khách hàng được hỗ trợ lãi suất nhưng tình hình sản xuất kinh doanh suy giảm, ảnh hưởng đến các tiêu chí đánh giá về phục hồi, làm ngân hàng thương mại và khách hàng e ngại bị các cơ quan thanh tra, kiểm tra cho rằng trục lợi chính sách.
Chưa kể, hoạt động kinh doanh của các đối tượng ngành, lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất có nhiều chuyển biến so với thời điểm ban hành nghị quyết số 43. Điều này dẫn đến nhu cầu được hỗ trợ có thể thay đổi so với thời điểm trước, đó là doanh nghiệp muốn được hỗ trợ trực tiếp hoặc giảm thuế, phí, lệ phí thay vì hỗ trợ lãi suất.
Giải ngân chậm do nhiều quy định ràng buộc quá chặt chẽ và không khả thi
Gói 40.000 tỷ đồng được đánh giá là có nhiều quy định ràng buộc quá chặt chẽ và không khả thi dẫn đến hiệu quả thực hiện chính sách không cao do đó việc gia hạn thêm 6 tháng dù không thể kỳ vọng giải ngân được hết gói hỗ trợ song đòi hỏi phải có cách triển khai mới để thêm đồng nào tốt đồng đó.
Phó giáo sư - Tiến sỹ Trần Hoàng Ngân – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh cho biết mục tiêu của chúng ta là giải ngân gói tín dụng 40.000 tỷ đồng nhưng mới chỉ thực hiện được khoảng 1.200 tỷ đồng. Đây là tồn tại của Nghị quyết 43, cần phải rút ra bài học kinh nghiệm, khi thể chế ban hành cần phải phù hợp với với thực tiễn.
Để giúp chính sách phát huy hiệu quả, nhiều ý kiến đã đề xuất cần có những thay đổi từ gói 40.000 tỷ đồng nhằm giúp nguồn tiền ngân sách được sử dụng kịp thời, hỗ trợ cho người dân, doanh nghiệp phục hồi kinh tế.
Tiến sỹ Lê Duy Bình - Giám đốc Điều hành Economica Việt Nam nhận định: "Dựa trên những nguyên tắc của thị trường và chuyển hóa nó thành giao dịch hoàn toàn mang tính chất thương mại. Nếu chúng ta thiết kế được điều đó thì mới có thể kỳ vọng giải ngân tốt gói 2% này."
Còn ông Trần Đức Anh - Giám đốc Kinh tế vĩ mô và Chiến lược thị trường, Công ty Chứng khoán KB Việt Nam cho rằng phải đưa ra những quy định, tiêu chí vừa đủ chặt chẽ để không làm thất thoát vốn nhà nước nhưng vừa cũng mang tính chất cởi mở và tính chất khuyến khích để bản thân ngân hàng, doanh nghiệp có sự tự tin khi sử dụng gói hỗ trợ 2%.
Tổng Giám đốc một ngân hàng lớn cũng chia sẻ các tổ chức tín dụng đã phải nhìn nhận lại những khó khăn của chính sách và đã đề xuất với Ngân hàng Nhà nước để báo cáo Chính phủ có thể chuyển gói tín dụng này sang hỗ trợ theo một hình thức khác.
Trong báo cáo gửi Quốc hội, Chính phủ cũng nhấn mạnh đối với số vốn không giải ngân hết của chính sách sau khi kết thúc thời gian theo kế hoạch, Chính phủ sẽ trình Quốc hội hủy dự toán, kế hoạch vốn, không huy động nguồn lực đồng thời không làm tăng bội chi tương ứng với số vốn này./.