
Người tiêu dùng ưu tiên chọn mua sản phẩm xanh có nguồn gốc thiên nhiên, thân thiện môi trường
Theo kết quả nghiên cứu của Nielsen Việt Nam, các thương hiệu có cam kết “xanh” và “sạch” đều có mức tăng trưởng khá cao, khoảng 4%/năm. Xu hướng tiêu dùng xanh cũng kéo theo sự ra đời của các chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch như Sói Biển, Bác Tôm, Home Food, Hano Farm... nhằm đáp ứng nhu cầu mua sản phẩm sạch, rõ nguồn gốc của người dân.
Nhiều cửa hàng trà sữa, cà phê chuyển sang kinh doanh theo xu hướng xanh bằng cách sử dụng ống hút tre hoặc inox thay cho ống hút nhựa; hạn chế sử dụng các loại nước đóng chai có bao bì khó phân hủy; chỉ sử dụng túi giấy thay vì sử dụng túi nylon...
Nhiều siêu thị lớn trên cả nước như Co.opmart, Lotte mart thời gian qua cũng chung tay, nỗ lực giảm thiểu việc sử dụng túi nylon, rác thải nhựa bằng cách sử dụng lá chuối gói rau củ, thực phẩm thay túi nylon; sử dụng, phân phối các sản phẩm bao bì thân thiện môi trường...
Mới đây, Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao có tổ chức khảo sát về “Nhận thức và Hành vi tiêu dùng xanh 2024” cho thấy trước những lo ngại về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm và mối quan tâm đến sức khỏe, môi trường, người tiêu dùng hiện nay nhận thức khá tích cực về những lợi ích mà tiêu dùng xanh mang lại.
Cụ thể, 55% người tiêu dùng được hỏi đã chọn mua sản phẩm xanh căn cứ vào quy trình sản xuất bền vững, có nguồn gốc thiên nhiên, thân thiện môi trường. 59% người tiêu dùng cho biết họ sẽ gia tăng sử dụng sản phẩm xanh và tiêu dùng xanh trong thời gian tới. Đồng thời, họ sẵn sàng chi trả tăng thêm để có thể sử dụng sản phẩm xanh ở những mức độ khác nhau; trong đó mức độ chi trả tăng thêm được hưởng ứng nhiều nhất là 5-10% so với sản phẩm thông thường.
Qua khảo sát này, các doanh nghiệp cho rằng nếu có lực lượng đông đảo người tiêu dùng ủng hộ sản phẩm xanh, sẵn sàng chấp nhận mức chi phí cao hơn thông thường, thì sản xuất xanh và tiêu dùng xanh hứa hẹn có dư địa phát triển.
Tại Việt Nam, nhiều doanh nghiệp đã ưu tiên các sản phẩm xanh nhằm nỗ lực giảm rác thải nhựa, hạn chế sử dụng túi nilon và thay vào đó là sử dụng các sản phẩm tái chế, hay những chiếc túi sử dụng nhiều lần với giá phải chăng…
Ông Lê Mạnh Phong, Giám đốc điều hành hệ thống Go/BigC vùng Hà Nội và miền Bắc nêu định hướng của doanh nghiệp là luôn hướng tới tiêu dùng bền vững. Đặc biệt những năm gần đây xu hướng này càng rõ rệt, cụ thể một sản phẩm thân thiện môi trường từ nguyên liệu, quy trình sản xuất đến bao bì sẽ mang lại sức cạnh tranh cho doanh nghiệp và người tiêu dùng sử dụng sản phẩm thân thiện với môi trường hoặc không thân thiện với môi trường cũng rõ hơn.
Dẫn chứng thêm điểm tích cực này, ông Phong thông tin, có tới 31% khách hàng sẵn sàng trả tiền cao hơn cho một sản phẩm có thể hỗ trợ bảo vệ môi trường và xu hướng đó đang tăng lên nhanh những năm gần đây.
“Nhiều doanh nghiệp lớn đã bắt đầu dịch chuyển các sản phẩm bán chạy của mình từ bao bì thông thường sang bao bì thân thiện môi trường và sức tiêu thụ của các sản phẩm thân thiện môi trường đang cao hơn,” ông Phong nói.
Thực tế, việc tiêu dùng xanh đang trở thành vấn đề tất yếu. Người tiêu dùng nhận thức được sự cần thiết của các hoạt động bảo vệ môi trường và thay đổi hành vi, thói quen để có các tác động tích cực đối với bảo vệ môi trường.

Trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, yêu cầu về bảo vệ môi trường và phát thải thấp đều được đặt ra như một cam kết mang tính ràng buộc. Trong đó, các sản phẩm, nhãn hàng được đánh giá khắt khe hơn về yêu cầu phát triển bền vững trên cơ sở mức độ tuân thủ của doanh nghiệp về các đòi hỏi, bao gồm môi trường, xã hội, trách nhiệm đối với người lao động, người tiêu dùng toàn cầu.
Hiện nay, các quốc gia nhập khẩu đang đặt ra nhiều quy định mới về tiêu chuẩn nhập khẩu hàng hóa, chẳng hạn Cơ chế Điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của EU… Đây là cơ chế nhằm kiểm soát lượng khí nhà kính được thải ra từ hàng hóa nhập khẩu vào các quốc gia trong EU. CBAM điều chỉnh trực tiếp một loại thuế carbon sẽ được áp dụng cho một nhóm mặt hàng có lượng phát thải cao.
Lộ trình áp dụng CBAM bắt đầu từ ngày 1/10/2023 và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2026. Ở giai đoạn chuyển đổi (từ ngày 1/10/2023), các doanh nghiệp nhập khẩu vào EU bắt buộc phải khai báo hàng quý khối lượng nhập khẩu và lượng phát thải khí nhà kính có trong hàng hóa nhập khẩu với 6 nhóm sản phẩm, bao gồm nhôm, sắt và thép, phân bón, xi măng, điện và hydro nhưng không phải trả thêm bất kỳ khoản phí nào.
Trong giai đoạn vận hành từ 2026- 2034, trước ngày 31/5 hằng năm, nhà nhập khẩu vào EU phải khai báo về số lượng hàng hóa và lượng phát thải tích hợp trong những hàng hóa được nhập khẩu của năm trước; đồng thời phải nộp lại số lượng chứng chỉ CBAM tương ứng với lượng phát thải khí nhà kính có trong sản phẩm. Giai đoạn này, EU sẽ dần dần loại bỏ việc phân bổ miễn phí hạn ngạch phát thải khí nhà kính.
Nếu doanh nghiệp, nhà nhập khẩu vào EU không thực hiện giảm thải tương ứng các nhà nhập khẩu hàng hóa thuộc phạm vi điều chỉnh của CBAM, sẽ phải mua chứng chỉ CBAM. CBAM không phải là thuế, nhưng nó tạo ra các chi phí bổ sung để khuyến khích hoặc buộc doanh nghiệp thay đổi công nghệ sản xuất, giảm phát thải. Theo nhận định của nhiều chuyên gia, đây thực sự là thách thức rất lớn đối với các nhà sản xuất, trong đó có Việt Nam.
Cần có thêm sự hỗ trợ doanh nghiệp trong việc thực hiện sản xuất tiêu dùng bền vững
Thực tế tại Việt Nam, việc chuyển đổi xanh trong sản xuất được triển khai trong hầu hết các ngành kinh tế, đặc biệt là những ngành có phát thải cao như da giày, xơ sợi/may mặc, chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản, chế biến thực phẩm…
Ông Nguyễn Văn Phượng, Phụ trách Cuộc khảo sát Tiêu dùng Xanh 2024, cho biết khảo sát cho thấy rào cản lớn nhất đối người tiêu dùng hiện nay trong việc tiêu dùng xanh là sản phẩm xanh có giá cao, sự sẵn có (độ phủ) sản phẩm xanh còn hạn chế, thiếu thông tin định hướng, cũng như chưa có chính sách khuyến khích tiêu dùng xanh.
Trong khi Việt Nam là nước đã tham gia thực hiện các cam kết về cắt giảm khí thải carbon tới năm 2050, Chính phủ cũng đặt quyết tâm đến năm 2030 sẽ có những kết quả cụ thể đối với hành động cắt giảm khí thải carbon.
Chính phủ đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc thực hiện sản xuất tiêu dùng bền vững.
Nhiều hoạt động cụ thể cũng đã được triển khai như quy định về dán nhãn năng lượng đối với sản phẩm để cung cấp thông tin cho người tiêu dùng; áp dụng nguồn năng lượng sạch trong quá trình sản xuất...
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra đối với sản xuất xanh là yêu cầu nguồn lực rất lớn, nhất là giai đoạn đầu tư ban đầu, trong một số trường hợp có thể ảnh hưởng tới chi phí, giá thành của sản xuất.
Do đó, giá bán của các sản phẩm xanh thường có xu hướng cao hơn so với những sản phẩm thông thường. Đó là một trong những nguyên nhân khiến người tiêu dùng gặp khó khăn khi quyết định lựa chọn sản phẩm xanh.
Hơn nữa, vẫn có những doanh nghiệp lợi dụng thông tin của các sản phẩm xanh để bán giá cao, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng; khiến người tiêu dùng không yên tâm khi lựa chọn sử dụng những sản phẩm được gắn mác sản phẩm xanh.

Bà Nguyễn Kiều Oanh, Phó Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội, cho biết thời gian qua, các cơ quan quản lý nhà nước đã hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tiếp cận các nguồn vốn, nguồn lực để giảm giá thành sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh; tăng cường công tác tuyên truyền, cung cấp cho người tiêu dùng thông tin nhà sản xuất, sản phẩm xanh đáng tin cậy, giúp người tiêu dùng tăng niềm tin khi quyết định sử dụng sản phẩm.
Sở Công Thương Hà Nội đã, đang triển khai hiệu quả Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững.
Đến nay, Chương trình đã hỗ trợ khoảng 50% doanh nghiệp trong lĩnh vực phân phối được hướng dẫn, áp dụng các giải pháp về sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng; giảm 65% tỷ lệ sử dụng bao bì khó phân hủy tại các chợ dân sinh và các trung tâm thương mại, siêu thị; 70% các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp áp dụng đổi mới công nghệ theo hướng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường; 80% doanh nghiệp tham gia chuỗi sản xuất, cung ứng nông sản thực phẩm an toàn.
Thực tế, để hướng tới các mô hình sản xuất xanh, tiêu dùng bền vững cần có sự nỗ lực từ phía các doanh nghiệp sản xuất, nhà cung cấp cũng như những thay đổi trong thói quen mua sắm của người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, rất cần những cơ chế, chính sách, chương trình hỗ trợ phù hợp của các cơ quan chức năng, địa phương trong việc khuyến khích các mô hình sản xuất, tiêu dùng xanh, bền vững.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, ngành chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy sản chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu, nhưng cũng gây ra biến đổi khí hậu vì tạo ra lượng lớn khí nhà kính... Giảm phát thải khí nhà kính trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản là một yếu tố quan trọng để phát triển nền kinh tế xanh, bền vững. Một trong những giải pháp tiềm năng là áp dụng các lựa chọn thay thế thức ăn có lượng phát thải thấp.
Theo các chuyên gia, doanh nghiệp không thể đứng ngoài “cuộc chơi xanh hóa” trong lĩnh vực này, vì những đòi hỏi khắt khe của thị trường nhập khẩu, trong đó có việc truy xuất nguồn gốc, các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, nông sản./.