
Công nghiệp môi trường mở đường tăng trưởng xanh và phát triển bền vững
Trong tiến trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh, tuần hoàn và phát triển bền vững, công nghiệp môi trường (CNMT) được định hướng là một trong những ngành kinh tế trọng điểm. Không chỉ đóng vai trò then chốt trong nâng cao năng lực tự chủ công nghệ, cải thiện năng suất và chất lượng tăng trưởng, CNMT còn được kỳ vọng trở thành động lực mới để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư và góp phần quan trọng vào mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Nhằm hiện thực hóa mục tiêu đó, sáng 2/7, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã chủ trì cuộc họp với các bộ, ngành để thảo luận về dự thảo Chương trình phát triển ngành CNMT đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Dự thảo này xác lập mục tiêu tổng quát là đưa công nghiệp môi trường trở thành một ngành kinh tế độc lập, có đóng góp rõ nét vào cơ cấu kinh tế quốc dân. CNMT không chỉ hướng đến việc đáp ứng nhu cầu trong nước về công nghệ và sản phẩm môi trường, mà còn từng bước tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Một điểm đáng chú ý trong chương trình là việc xác định doanh nghiệp tư nhân giữ vai trò trung tâm. Các cơ chế ưu đãi về tín dụng xanh, thuế, đầu tư sẽ được triển khai để hỗ trợ doanh nghiệp. Đồng thời, chương trình đặt mục tiêu hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực CNMT, từ đó tạo ra sự liên kết giữa nghiên cứu, sản xuất và thị trường.
Bên cạnh đó, việc phát triển công nghệ tiên tiến, đặc biệt là các giải pháp xử lý chất thải, tái chế, tiết kiệm năng lượng và sản xuất thông minh, được xem là trọng tâm của chương trình. Các sản phẩm ứng dụng công nghệ sinh học, cảm biến, phần mềm điều khiển tự động và quản trị thông minh cũng sẽ được ưu tiên nghiên cứu và đưa vào thực tiễn.
Về năng lực nội địa, đến năm 2030, công nghệ, thiết bị và sản phẩm CNMT đặt mục tiêu đáp ứng từ 60-80% nhu cầu trong nước trong các lĩnh vực như xử lý nước thải, khí thải, chất thải rắn, chất thải nguy hại và đo lường môi trường. Tỷ lệ này dự kiến tăng lên 80–90% vào năm 2035. Đồng thời, ngành sẽ tập trung xây dựng thị trường hàng hóa môi trường trong nước và thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh.
Không tách rời yếu tố con người, chương trình xác định đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là giải pháp then chốt. Dự kiến, một cơ sở dữ liệu quốc gia về nhu cầu nhân lực trong ngành sẽ được xây dựng, đồng thời tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ quản lý và doanh nghiệp, tạo nền tảng hình thành đội ngũ chuyên gia đủ năng lực tiếp cận công nghệ tiên tiến và hội nhập thị trường quốc tế.
Cần lộ trình rõ, mục tiêu cụ thể và cơ chế mạnh mẽ
Tại cuộc họp về dự thảo Chương trình phát triển công nghiệp môi trường, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết phải hoàn thiện nội dung và phương pháp xây dựng chương trình. Phó Thủ tướng cho rằng, bản dự thảo hiện nay mới chỉ dừng lại ở mức định hướng hành động, nội dung còn chung chung, thiếu tính cụ thể, chưa xác định rõ cơ quan chủ trì, đơn vị thực hiện cũng như chưa có kế hoạch triển khai và hệ thống chỉ tiêu đo lường hiệu quả rõ ràng.

Trước thực trạng đó, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Công Thương phải rà soát lại cách tiếp cận tổng thể, xác lập mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn phát triển, đồng thời xây dựng lộ trình triển khai rõ ràng, có tính khả thi cao. Việc phân vai trong tổ chức thực hiện cần được làm rõ, từ nghiên cứu, sản xuất, đầu tư đến ban hành tiêu chuẩn - quy chuẩn kỹ thuật. Đặc biệt, danh mục công nghệ ưu tiên cho giai đoạn 2025-2030 cần được xác định cụ thể, gồm: công nghệ điện rác, xử lý nước thải, vật liệu xây dựng tái chế, tái chế thiết bị năng lượng tái tạo, hệ thống quan trắc môi trường, nhựa sinh học và vật liệu xanh… Các công nghệ này cần được phân nhóm theo ba hướng: nhập khẩu có điều kiện, khuyến khích sản xuất trong nước và bắt buộc chuyển giao công nghệ.
Một trong những nội dung quan trọng được Phó Thủ tướng lưu ý là việc thiết lập các chỉ tiêu định lượng cụ thể cho từng lĩnh vực. Ví dụ, trong xử lý chất thải, cần xác định rõ mục tiêu xử lý triệt để chất thải rắn sinh hoạt, chất thải nguy hại, nước thải đô thị và công nghiệp. Với kinh tế tuần hoàn, phải làm rõ tỷ lệ tái chế, tái sử dụng trong các ngành công nghiệp, xây dựng và khai khoáng. Trong lĩnh vực năng lượng sạch, cần nêu tỷ lệ ứng dụng trong giao thông, xây dựng, sản xuất. Đối với giám sát môi trường, phải xác định cụ thể số lượng trạm quan trắc, phạm vi bao phủ và mức độ tự động hóa. Lĩnh vực dịch vụ môi trường cũng cần được phát triển theo hướng xây dựng hệ sinh thái đa dạng, có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.
Phó Thủ tướng nhấn mạnh, các mục tiêu nêu ra không thể tách rời năng lực công nghệ trong nước. Lộ trình công nghệ cần được tính toán kỹ, từ nhập khẩu có chọn lọc, tiếp nhận công nghệ đến tự chủ hoàn toàn, nhằm giảm dần sự phụ thuộc vào thiết bị ngoại nhập.
Trong thời gian trước mắt, đến năm 2025, ngành công nghiệp môi trường, bao gồm cả lĩnh vực dịch vụ cần được xác định rõ là một ngành kinh tế quan trọng, có vai trò chiến lược trong việc bảo đảm tự chủ quốc gia khi ứng phó với các thách thức môi trường, đồng thời từng bước phát triển năng lực xuất khẩu công nghệ, sản phẩm và dịch vụ môi trường ra thị trường quốc tế.
Cùng với việc hoàn thiện mục tiêu và nội dung, Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Công Thương rà soát toàn bộ hệ thống chính sách, thể chế hiện hành liên quan đến lĩnh vực này. Trong đó, cần nghiên cứu điều chỉnh các chính sách thuế và tài chính như thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp cho phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp môi trường; đồng thời xây dựng cơ chế ưu đãi cho chuyển giao công nghệ, khuyến khích đầu tư xanh, hỗ trợ nghiên cứu - triển khai (R&D) và đào tạo nguồn nhân lực.
Về mặt triển khai, Phó Thủ tướng đặc biệt lưu ý vai trò của khu vực công trong việc "mở đường". Với những lĩnh vực đòi hỏi chi phí đầu tư lớn, rủi ro cao hoặc chưa có doanh nghiệp tư nhân đủ khả năng tham gia như xử lý chất thải nguy hại, công nghệ tái chế rác điện gió, điện mặt trời, quan trắc môi trường quy mô lớn, các đơn vị nhà nước cần chủ động đi trước. Các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực năng lượng, xây dựng và công nghiệp nên được giao thực hiện các dự án mẫu, làm cơ sở để nhân rộng trong tương lai.
Bên cạnh đó, Phó Thủ tướng cũng đề xuất thúc đẩy hợp tác công - tư trong nghiên cứu và sản xuất các sản phẩm mới. Theo ông, Nhà nước nên đóng vai trò hỗ trợ ban đầu, từ cung cấp vốn, hạ tầng đến đào tạo nhân lực, trong khi doanh nghiệp thực hiện vận hành, thương mại hóa sản phẩm. Đồng thời, cần tập trung nguồn lực để xây dựng các trung tâm công nghiệp môi trường cấp quốc gia, thay vì đầu tư dàn trải, kém hiệu quả như hiện nay.