Ứng dụng công nghệ sinh học nông nghiệp là yếu tố then chốt trong chuyển đổi xanh

Chuyển đổi xanh trong nông nghiệp đang là xu thế tất yếu nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và thích ứng bền vững. Trong đó, việc ứng dụng những thành tựu công nghệ sinh học là yếu tố then chốt, góp phần mở ra triển vọng to lớn cho ngành nông nghiệp, thủy sản của các vùng có thế mạnh của cả nước. Từ đó, nhằm phát triển một nền nông nghiệp xanh, bền vững, bảo đảm vấn đề lương thực cho đất nước và lương thực trên thế giới.
cong-nghe-sinh-hoc-nong-nghiep-4-1729213088.jpg
Ứng dụng công nghệ sinh học trồng dưa lưới trong nhà kính. (Ảnh minh họa)

Thế giới có khoảng 200 triệu ha cây trồng biến đổi gen

TS Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ NN&PTNT, Chủ tịch HĐQT Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế - IRRI cho biết, những kết quả của công nghệ sinh học (CNSH) đã giúp ngành nông nghiệp có nhiều thành tựu đột phá trong 30 năm qua. Trong đó, những công nghệ nổi bật có nuôi cấy mô giúp lĩnh vực trồng trọt, đặc biệt là các sản phẩm như ngô, đỗ tương, bông… có năng suất vượt trội, góp phần đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu, giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), cải thiện chất lượng đất, môi trường.

Theo thống kê, thế giới có khoảng 200 triệu ha cây trồng biến đổi gen. Tỷ lệ chiếm nhiều nhất là đậu tương, lên tới gần 80% diện tích. Ngoài ra, diện tích trồng ngô cũng tới hơn 25%. Bên cạnh nuôi cấy ngô, CNSH giúp đẩy mạnh sử dụng các chế phẩm sinh học, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.

Hiện CNSH đã phát triển sang công nghệ vi sinh, công nghệ nano, công nghệ tế bào, công nghệ chỉnh sửa gen… giúp ngành nông nghiệp đạt được những đỉnh cao mới. Giới hạn áp dụng CNSH cũng không còn bó buộc trong trồng trọt mà mở ra sang chăn nuôi, thủy sản.

cong-nghe-sinh-hoc-nong-nghiep-1-1729213123.jpg
TS Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ NN&PTNT, Chủ tịch HĐQT Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế - IRRI.

Tại vùng ĐBSCL, việc cải tiến giống cây trồng thông qua ứng dụng công nghệ sinh học đã cho ra đời nhiều giống cây được phát triển với khả năng chống chịu sâu bệnh tốt hơn, giúp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.

Trên bình diện chung, Tiến sĩ Đỗ Tiến Phát, Trưởng phòng Công nghệ tế bào thực vật, Viện Công nghệ sinh học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho biết, phát triển công nghệ sinh học là xu thế tất yếu; là động lực quan trọng để thực hiện quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng.

Công nghệ sinh học thực vật, đặc biệt là công nghệ chỉnh sửa gen trên cây trồng đã cho ra đời nhiều sản phẩm cây trồng có các tính trạng nổi bật như chịu hạn, tăng hàm lượng dinh dưỡng, chống chịu sâu bệnh… Tiến sĩ Đỗ Tiến Phát nêu rõ, ứng dụng công nghệ sinh học được coi là con đường đưa nông sản Việt có chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế.

Theo Tiến sĩ Đỗ Tiến Phát: "Viện Công nghệ sinh học chúng tôi cũng đã tiếp cận với công nghệ chỉnh sửa gen, đến nay đã có những thành công trên một số đối tượng khác nhau. Có những thành công trên đối tượng thực vật, động vật và vi sinh vật. Ở lĩnh vực động vật và vi sinh vật mới có một số kết quả bước đầu. Còn ở lĩnh vực thực vật đã có khá nhiều thành công trên cả lĩnh vực nghiên cứu cơ bản và cải tạo giống cây trồng. Chúng tôi đã ứng dụng thành công công nghệ này để nghiên cứu chức năng của nhiều gen trên các đối tượng cây trồng quan trọng ở Việt Nam. đồng thời nghiên cứu hệ thống nhằm đánh giá nhanh hoạt động của cấu trúc chỉnh sửa gen".

Công nghệ sinh học giúp nâng cao tính bền vững của hệ thống canh tác

Theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Ninh, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường (Bộ NN&PTNT) cho biết, tại Việt Nam nghiên cứu khoa học công nghệ luôn có độ trễ so với thực tế. Những điều chỉnh hôm nay phải nhiều năm sau mới bắt đầu phát huy tác dụng.

Gần nhất, Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 30/1/2023 của Bộ Chính trị đã xác định, xây dựng CNSH trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng. Trước mắt, Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường đề xuất Bộ NN&PTNT tập trung xây dựng, khai thác tối đa, hiệu quả các phòng thí nghiệm trọng điểm, tập trung vào những công nghệ tế bào, công nghệ nano.

Do nguồn lực còn bị giới hạn, nghiên cứu CNSH nên ưu tiên một số lĩnh vực có khả năng cho ra sản phẩm có giá trị kinh tế. Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường nhận định, trong khoảng 5 năm tới, CNSH sẽ tập trung vào kỹ thuật di truyền, bao gồm chỉnh sửa gen, nhân giống vô tính và tái tổ hợp ADN.

cong-nghe-sinh-hoc-nong-nghiep-3-1729213156.jpg
PGS.TS Nguyễn Hữu Ninh, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và môi trường.

Đối với nước ta, ở những khu vực có thế mạnh sản xuất nông nghiệp, những năm qua, công nghệ sinh học cũng đã được ứng dụng hiệu quả vào việc bảo quản nông sản sau thu hoạch, giảm thiểu tổn thất và gia tăng giá trị xuất khẩu. Ngoài ra, các giải pháp công nghệ vi sinh đã được triển khai rộng rãi, giúp cải thiện chất lượng đất và giảm thiểu việc sử dụng phân bón hóa học, từ đó nâng cao tính bền vững của hệ thống canh tác.

Thực tế trong nước, sau cây lúa, ngô là cây lương thực có vị trí đặc biệt quan trọng trong cơ cấu sản xuất trồng trọt. Tháng 4 năm 2015, giống ngô chuyển gene lần đầu tiên được đưa đến tay bà con nông dân, đánh dấu năm đầu canh tác giống ngô này, ngay sau khi Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cấp quyết định công nhận đặc cách giống cây trồng chuyển gene đầu tiên tại Việt Nam. Thành quả sau 10 năm canh tác ngô chuyển gene cho thấy vai trò và khả năng dẫn dắt của công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp. Lũy kế diện tích canh tác ngô chuyển gene kể từ năm 2015 tới năm 2022 là hơn 700.000ha.

cong-nghe-sinh-hoc-nong-nghiep-2-1729213208.jpg
Tại ĐBSCL, đã có nhiều Viện, Trường, Trại Thực nghiệm sản xuất lúa giống theo mô hình công nghệ sinh học (Ảnh minh họa)

Ở góc độ nghiên cứu của mình, PGS-TS Nguyễn Hữu Ninh nhấn mạnh sự phát triển vượt bậc của công nghệ sinh học trên thế giới xuất phát từ nhiều nguyên nhân như dân số tăng, nhu cầu an ninh lương thực cần đảm bảo, biến đổi khí hậu, thiên tai dịch bệnh. Như vậy, vấn đề đặt ra cho sản xuất nông nghiệp trong kỷ nguyên mới cần thiết phải điều chỉnh áp dụng công nghệ tạo ra những giống mới để tạo ra sản phẩm đem lại hiệu quả sản xuất tốt hơn cho người dân, đáp ứng nhu cầu về an ninh lương thực.

"Đầu tiên là vấn đề hành lang pháp lý cần có sự rõ ràng. Phải có hành lang pháp lý để tạo điều kiện cho khối doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các hoạt động phát triển sản phẩm công nghệ sinh học. Rồi cơ chế đầu tư cho các phòng nghiên cứu công nghệ sinh học trọng điểm đển có thể tập trung nghiên cứu. Nguồn nhân lực cũng cần phải đào tạo để bắt kịp với thế giới. Về ngắn hạn, cần những quỹ hỗ trợ nhà khoa học trong hợp tác nghiên cứu, đặc biệt là hợp tác với quốc tế để có thể tiếp cận những công nghệ, kỹ thuật hiện đại", PGS-TS Nguyễn Hữu Ninh khẳng định.

Trước diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu và dịch hại, theo nhiều chuyên gia, việc hoàn thiện hành lang pháp lý để xúc tiến hiệu quả các giống mới, cây trồng mới áp dụng công nghệ sinh học là hết sức cần thiết để bảo đảm an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp bền vững trong kỷ nguyên mới. Trong đó, vai trò dẫn dắt của Nhà nước trong việc đưa ra khung pháp lý, lộ trình áp dụng là rất quan trọng để các Bộ ngành, địa phương, người nông dân tiếp cận công nghệ sinh học nhanh nhất, sớm nhất, chủ động thích ứng tốt hơn với dịch hại mới./.

Trọng Bình