Thúc đẩy xuất khẩu nông sản sang thị trường khu vực Đông Bắc Á

Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) cho biết, Đông Bắc Á là thị trường vừa truyền thống vừa là trọng tâm, trọng điểm trong xuất khẩu hàng hóa đặc biệt là nông sản của Việt Nam.

Khu vực thị trường Đông Bắc Á có dân số khoảng hơn 1,6 tỷ người (riêng Trung Quốc là 1,4 tỷ người). Đây là khu vực có sức mua lớn, nhiều tiềm năng cho nhóm hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu. Ngoài 3 đối tác thương mại lớn là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, Việt Nam còn một số thị trường quan trọng khác ở khu vực Đông Bắc Á như Đài Loan (Trung Quốc), Mông Cổ, Hong Kong (Trung Quốc)...

Một trong những thuận lợi để Việt Nam khai thác tiềm năng, gia tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản sang thị trường các nước khu vực Đông Bắc Á là hiện các nước trong khu vực Đông Bắc Á đều đã ký kết và tham gia các Hiệp định thương mại tự do cả song phương và đa phương với Việt Nam như: Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Hàn Quốc (VKFTA); Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA); Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực RCEP (với cả Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản)…

buoi-1700560236.jpg
Trái cây là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang thị trường các nước khu vực Đông Bắc Á. (Ảnh: MH)

Thông tin từ Vụ Thị trường châu Á-châu Phi (Bộ Công Thương), năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với khu vực Đông Bắc Á đạt 350,2 tỷ USD, chiếm 48% trong tổng xuất nhập khẩu của Việt Nam với thế giới, trong đó xuất khẩu đạt 122,3 tỷ USD, chiếm 32,9% tổng xuất khẩu ra thế giới. Riêng 9 tháng của năm nay, kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam với khu vực Đông Bắc Á đạt 236 tỷ USD, chiếm 47,5% trong tổng xuất nhập khẩu của Việt Nam với thế giới, trong đó xuất khẩu đạt 88 tỷ USD...

Trong đó, có các mặt hàng tiêu biểu là gạo 545 triệu USD, tăng 52,9%; hàng rau quả đạt 3,2 tỷ USD, tăng 115% so với cùng kỳ năm 2022. Hiện Đông Bắc Á là thị trường xuất khẩu quan trọng đối với nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam. Đây là thị trường xuất khẩu lớn nhất của mặt hàng rau quả với tỷ trọng 75% tổng xuất khẩu. Ngoài ra, đây cũng là thị trường xuất khẩu lớn nhất của sản phẩm cao-su và sắn với tỷ trọng lần lượt là 83% và 95,8% tổng xuất khẩu.

Theo đánh giá của ngành chức năng, dư địa xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam sang khu vực thị trường này còn rất lớn. Thống kê cho thấy, tổng nhập khẩu các mặt hàng này của Trung Quốc là khoảng 151 tỷ USD/năm; Hàn Quốc 40 tỷ USD/năm; Nhật Bản 33 tỷ USD/năm; trong khi xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường này mới chỉ chiếm lần lượt là 7 tỷ USD, 1,3 tỷ USD và 1,2 tỷ USD.

tom-1700560383.jpg
Nông sản xuất khẩu sang thị trường khu vực này cần đặc biệt chú ý đến các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật.

Đáng chú ý, năm 2022, nhập khẩu rau quả của Nhật Bản đạt 165 triệu USD. Nhu cầu của thị trường Nhật Bản cho các loại quả tươi ngày càng lớn, nhưng sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ. Đây là cơ hội xuất khẩu cho các loại trái cây nhiệt đới của Việt Nam, nhất là các loại quả như chuối, xoài, thanh long, vải, nhãn đã được phép xuất khẩu chính ngạch sang Nhật Bản. Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA) có hiệu lực từ ngày 1/10/2009, Nhật Bản đã cam kết giảm thuế suất đối với các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam; Việt Nam còn được hưởng thuế suất ưu đãi theo Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản (AJCEP)…Từ đây, nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh rất lớn khi xuất khẩu vào Nhật Bản.

Tại thị trường Hàn Quốc, xuất khẩu nông sản của nước ta hưởng lợi từ Việt Nam và Hàn Quốc đã ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do, gồm Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN-Hàn Quốc (AKFTA), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Hàn Quốc (VKFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Hàn Quốc đang là thị trường mới nổi về nhập khẩu rau quả của Việt Nam, khi năm 2022 kim ngạch lên tới 180 triệu USD, cao hơn Nhật Bản (165 triệu USD).

Đối với thị trường Trung Quốc, Việt Nam hiện xếp thứ 10 trong số các quốc gia xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc. Riêng nhóm hàng rau quả thì Việt Nam nằm trong nhóm ba nước có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất sang thị trường Trung Quốc, sau Thái Lan và Chile. Tuy nhiên hiện nay, hệ thống tiêu chuẩn, quy định của Trung Quốc đòi hỏi rất cao về chất lượng sản phẩm thông qua các văn bản: Lệnh 248 về Quy định quản lý đăng ký doanh nghiệp sản xuất thực phẩm nước ngoài nhập khẩu; Lệnh 249 về Biện pháp quản lý an toàn thực phẩm xuất nhập khẩu; Các tiêu chuẩn liên quan khác của nước nhập khẩu (quy tắc tem nhãn đối với thực phẩm đóng gói sẵn...).

Thách thức với các mặt hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu sang khu vực thị trường Đông Bắc Á hiện nay là khi hàng rào thuế quan được dỡ bỏ dần thì các quốc gia lại gia tăng hàng rào phi thuế quan như: Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT); Các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS); Hạn ngạch nhập khẩu (quota) đối với một số mặt hàng nhạy cảm; Các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá…Ngoài ra, nhiều quốc gia áp dụng quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói nhằm truy xuất và xác thực nguồn gốc xuất xứ nhằm ngăn ngừa giả mạo xuất xứ hàng hóa sản phẩm, bảo vệ người tiêu dùng.

Trên cơ sở những khó khăn, rào cản, những điểm mới trong quy định nhập khẩu của các nước, các chuyên gia cũng đưa ra các khuyến nghị, giải pháp cho doanh nghiệp; đồng thời, cung cấp thông tin về xu hướng, nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng nông sản của thị trường khu vực Đông Bắc Á. Từ đó, hướng dẫn và định hướng việc thực thi các giải pháp và cách làm nhằm đáp ứng các yêu cầu về chuẩn hóa sản phẩm, quy trình sản xuất trong xuất khẩu nông sản sang các thị trường khu vực Đông Bắc Á.

Các địa phương, doanh nghiệp cần nghiên cứu thích ứng với các tiêu chuẩn mới xu hướng tiêu dùng mới của thị trường xuất khẩu; duy trì thị phần thông qua tận dụng tối đa các ưu đãi các giảm thuế trong các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA); tăng cường xúc tiến thương mại kết nối giao thương sang thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc để gắn kết quảng bá, giới thiệu, kết nối nông thủy sản Việt Nam.

Đồng thời, đẩy mạnh đưa hàng hóa vào hệ thống phân phối lớn tại các nước Đông Bắc Á; đẩy mạnh khai thác thương mại điện tử xuyên biên giới. Các doanh nghiệp, địa phương lưu ý về chính sách mới trong thuế quan liên quan đến lệnh 248, 249 của Trung Quốc để đáp ứng đầy đủ các hồ sơ, giấy tờ phía Trung Quốc yêu cầu khi xuất khẩu hàng hóa, nông thủy sản sang thị trường này. Đối với các thị trường Hàn Quốc và Nhật Bản, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần phải lưu ý giữ uy tín tiêu chuẩn an toàn thực phẩm đối với nông thủy sản khi xuất vào thị trường này.