Việt Nam đang phát triển mạnh sản xuất nông nghiệp hàng hoá với nhiều sản phẩm chủ lực truyền thống như cà phê, cao su, hồ tiêu, hạt điều thanh long, dừa, mít… và các sản phẩm mới du nhập có năng suất cao như chanh dây, sầu riêng, mắc ca, cây dược liệu, các loại cây ăn quả khác...
Một số doanh nghiệp nông nghiệp đã chinh phục thành công những thị trường lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Úc, New Zealand, Hàn Quốc, EU... bằng những sản phẩm đạt chất lượng xuất khẩu, chiếm thị phần ngày càng cao.
Tuy nhiên, về khách quan do sản xuất còn manh mún, quy mô nhỏ, năng suất thấp, khả năng liên kết, ứng dụng công nghệ cao hạn chế, mặt khác do tư duy tiểu nông, chạy theo lợi nhuận đơn thuần, chưa tạo niềm tin trong sản xuất kinh doanh nên sản xuất nông nghiệp Việt Nam ẩn chứa và phát sinh nhiều rủi ro, thiếu bền vững, thậm chí thất bại. Điều này đặt ra cho các nhà sản xuất và xuất nhập khẩu nhiều quan ngại, thách thức.
Cơ hội xuất khẩu đang trên đà tăng mạnh cùng những thách thức mới
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán 19 Hiệp định thương mại tự do, nông sản Việt Nam đã tiếp cận được hơn 190 quốc gia, vùng lãnh thổ. Cả nước có 6.883 vùng trồng và 1.588 cơ sở đóng gói được cấp mã số xuất khẩu với 25 loại sản phẩm.
Trong 6 tháng cuối năm 2023, dự kiến có gần 7,6 triệu tấn các loại trái cây chính cần tiêu thụ như: xoài, chuối, thanh long, dứa, cam, vải, nhãn, sầu riêng, mít, bơ... đặt ra nhiều cơ hội và thách thức mới cho xuất khẩu.Trong đó, sầu riêng, mặt hàng mới được xuất khẩu chính ngạch vào Trung Quốc, hiện đã có 293 vùng trồng và 115 cơ sở đóng gói đã được phía Trung Quốc cấp mã số.
Mặc dù sầu riêng từ Thái Lan đã chiếm lĩnh thị trường Trung Quốc trong nhiều năm qua. Tuy nhiên hiện nay, Trung Quốc đang mở cửa nhiều hơn cho các sản phẩm từ Việt Nam, Malaysia và Philippines. Lợi thế lớn của sầu riêng Việt Nam là chất lượng tốt, giá cạnh tranh, thời gian vận chuyển từ vùng trồng đến thị trường tiêu thụ ngắn.
Chính quyền địa phương tỉnh Quảng Tây đã xây dựng trung tâm dịch vụ logistics nhằm tạo thuận lợi cho quá trình nhập khẩu. Điều này cho thấy nhu cầu của thị trường Trung Quốc với sản phẩm sầu riêng và nông sản Việt Nam nói chung vẫn rất lớn và thuận lợi. Đây là cơ hội giúp doanh nghiệp và nông dân mở rộng sản xuất, tăng thu nhập.
Đắk Lắk có hơn 28.000 ha sầu riêng với sản lượng tăng rất nhanh trong giai đoạn 2016 - 2023, từ trên 30.000 tấn lên ước đạt 190.000 tấn, với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 30%/năm. Trong đó, sản lượng trên diện tích được cấp mã vùng trồng khoảng 47.300 tấn, chiếm 25%. Đắk Lắk hiện có sản lượng sầu riêng đứng thứ 2 cả nước, chỉ sau Tiền Giang.
Tuy nhiên, theo thông báo của Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC), đã phát hiện một số lô hàng bị nhiễm đối tượng kiểm dịch thực vật với 6 vùng trồng và cơ sở đóng gói có thông báo vi phạm lần đầu đề nghị tạm dừng, 3 vùng trồng và cơ sở đóng gói vi phạm nhiều lần đề nghị thu hồi. Các mặt hàng vi phạm gồm sầu riêng và chuối.
Việc không kiểm soát hiệu quả các đối tượng kiểm dịch thực vật ngay từ vùng trồng và cơ sở đóng gói dẫn đến tình trạng các lô hàng không đáp ứng được quy định của Trung Quốc và làm mất uy tín hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam, thậm chí có nguy cơ làm mất thị trường xuất khẩu quan trọng này.
Tỉnh Gia Lai hiện có 146 mã số vùng trồng với tổng diện tích hơn 7.769 ha cây nông sản và 32 mã số cơ sở đóng gói với tổng công suất đóng gói khoảng 1.245 đến 1.395 tấn quả tươi/ngày, phục vụ xuất khẩu sang thị trường các nước gồm Trung Quốc, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand, Mỹ,...; Có khoảng 233.522 ha cây trồng sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, 4C, GlobalGAP, Organic, Rainforest Alliance, FLO (chiếm 41,5% tổng diện tích gieo trồng toàn tỉnh).Tỉnh phấn đấu xây dựng từ 180 đến 200 mã số vùng trồng và khoảng 40 đến 50 mã số cơ sở đóng gói nông sản phục vụ xuất khẩu.
Hiện tại, Việt Nam đã ký 5 Nghị định thư xuất khẩu chính ngạch chanh dây, sầu riêng, măng cụt, tổ yến sào và chuối sang thị trường Trung Quốc. Đây là điều kiện thuận lợi để đưa sản phẩm ra thị trường, là thành công rất quan trong mở ra cơ hội để xuất khẩu.
Từ tháng 2 năm 2023, Trung Quốc dỡ bỏ chính sách zero COVID, đã kích thích nhu cầu tiêu dùng tăng trở lại, nhiều nông sản như chuối, chanh dây, sầu riêng, tổ yến, khoai lang được xuất khẩu chính ngạch.
Bên cạnh cơ hội đó, thách thức mới cũng đang đặt ra cho cả nước và các tỉnh Tây Nguyên. Mới đây, tháng 5 năm 2023, Nghị viện châu Âu đã thông qua Quy định Chống phá rừng châu Âu (EUDR). Các sản phẩm như gổ, cà phê, cao su là những ngành hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng.
Theo Quy định này, gổ, cà phê, cao su khi nhập khẩu vào thị trường châu Âu cần có thông tin định vị (GPS) đến từng vườn, dựa trên đó xác nhận về nguy cơ gây mất rừng bằng các hệ thống giám sát viễn thám. Quy định Chống phá rừng châu Âu (EUDR) khi có hiệu lực (dự kiến từ tháng 12/2024) sẽ tác động trực tiếp đến các tác nhân trong các chuỗi cung ứng gổ, cao su và cà phê, sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức để đáp ứng EUDR, đặc biệt trong các vấn đề về dữ liệu định vị, truy xuất nguồn gốc, hệ thống giám sát, phản hồi chống phá rừng.
Bộ NN&PTNT coi việc tuân thủ Quy định này không chỉ là để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu các mặt hàng chủ lực vào thị trường EU, mà còn là cơ hội để đẩy nhanh việc thực hiện chiến lược phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam theo định hướng minh bạch, trách nhiệm, bền vững và tăng trưởng xanh, đảm bảo sinh kế cho nông dân.
Mỹ là thị trường hàng đầu với nông sản Việt Nam cũng có những yêu cầu rất khắt khe về chất lượng hàng hóa. Việt Nam xuất khẩu nông lâm thủy sản sang Mỹ năm 2022 đạt khoảng 13 tỉ USD, chiếm 24,4% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam ra toàn thế giới, tuy nhiên chỉ chiếm khoảng 6,7% giá trị nhập khẩu nông lâm thủy sản của Mỹ, do vậy cơ hội để Việt Nam mở rộng thị trường Mỹ còn rất lớn như cà phê, hạt điều, hồ tiêu, rau quả.
Phát triển bền vững phải từ thay đổi nhận thức và quyết liệt hành động
Rút kinh nghiệm từ thị trường Trung Quốc, trong 8 tháng đầu năm 2023, phía Trung Quốc đã 6 lần gửi thông báo vi phạm về mã số vùng trồng, với 439 trường hợp vi phạm. Bộ NN&PTNT đã nhiều lần cảnh báo, yêu cầu chấn chỉnh nhưng chuyển biến ở các địa phương rất chậm, thậm chí có nơi còn tệ hơn.
Nếu cứ tiếp tục vi phạm, thời gian tới Trung Quốc có thể áp dụng các biện pháp tăng cường như cho ngưng nhập khẩu. Khi đó chúng ta yêu cầu đàm phán lại thì mất 3-5 năm nữa. Với 10 loại trái cây chủ lực của Việt Nam đều có mặt ở Trung Quốc, chỉ cần dừng xuất khẩu 1 loại sẽ dẫn tới hệ lụy nghiêm trọng.
Để tận dụng cơ hội vàng và chủ động ứng phó với các thách thức mới, ngay lúc này đây, cần phải có sự đổi mới nhận thức và phối hợp hành động quyết liệt gắn kết chặt chẽ, liền mạch tất cả các mắc xích trong chuỗi cung ứng, từ vùng sản xuất nguyên liệu; Lập kế hoạch cho việc trồng những loại cây thích hợp với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường theo liên kết chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm với quản trị hiện đại; Sản phẩm phải có thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc, mả số vùng trồng, chứng nhận chất lượng và an toàn thực phẩm, bảo hộ sở hữu tài sản trí tuệ.
Khuyến cáo người dân tuân thủ qui trình sản xuất, thủ tục pháp lý, phải giữ uy tín, tạo niềm tin đối với khách hàng, biết ứng dụng khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất để tiết giảm chi phí, hạ giá thành, tăng năng suất và chất lượng hàng hóa nông sản xuất khẩu.
Để không phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã và đang phối hợp cơ quan chức năng khảo sát, mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường EU tiềm năng. Đưa sản phẩm tới một số quốc gia khác ngoài Trung Quốc như Mỹ, Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản, Belarus, Nga, Đài Loan, Indonesia, Philippines, Trung Đông và châu Phi thông qua các hiệp định thương mại tự do AFTA.
Từ những yêu cầu và xu hướng tiêu dùng thay đổi sau đại dịch Covid-19 và mở cửa hội nhập quốc tế hiện nay, mỗi tổ chức, mỗi nông dân, mỗi doanh nghiệp cần tìm cho mình một sự thay đổi nhận thức về kinh tế nông nghiệp và con đường để tiến đến việc sản xuất và canh tác bền vững, tạo thương hiệu mạnh và niềm tin chiến lược với các đối tác trong và ngoài nước góp phần thúc đẩy cho nông sản Việt Nam vươn xa ra thị trường thế giới, thực hiện tốt các cam kết trong quan hệ thương mại quốc tế.
Cần phối hợp xây dựng kế hoạch chi tiết để khuyến cáo, thu hút đầu tư, tổ chức, kiểm soát, quản lý sản xuất, chế biến… tạo ra những vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn với các sản phẩm chủ lực thích ứng theo yêu cầu khắc khe của thị trường bằng các giải pháp vừa cấp bách vừa có tính chiến lược liên quan đến kết nối sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, giới thiệu, quảng bá và hệ thống kênh phân phối nước ngoài là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Th.s Nguyễn Dũng
Phó Chủ tịch Hiệp Hội Đầu tư, Xây dựng - Dịch vụ Nông Lâm nghiệp Việt Nam
Trưởng Cơ quan Đại diện miền Nam tại TP.HCM