Hiện nay tổng diện tích tre Việt Nam khoảng 1.592.205 ha phân bố hầu hết tại các tỉnh trên cả nước, có 37/63 tỉnh có diện tích trên 10.000 ha. Với 6,5 tỷ cây, hàng năm khai thác 500 – 600 triệu cây, khoảng 2,5-3 triệu tấn. Sản phẩm chính gồm nguyên liệu thô/vật liệu xây dựng; chiếu/mành; tre đan; dụng cụ gia đình… mỗi năm nước ta xuất khẩu sản phẩm từ tre khoảng 300 – 400 triệu USD, trong đó, thị trường xuất khẩu chính gồm EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Trung Quốc… Tuy nhiên, ngành tre Việt Nam cũng đang đối diện với những khó khăn trong phát triển bền vững.
Thông tin trên được đưa ra tại Hội thảo “Vai trò của tre nguyên liệu đối với sự phát triển các chuỗi giá trị sản phẩm tre Việt Nam”, do Bộ NN&PTNT phối hợp với Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức.
Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), nguyên liệu tre hiện đang chiếm hơn 30% giá trị kinh tế trong nhóm cây lâm sản ngoài gỗ. Với vai trò nâng cao thu nhập, tạo việc làm cho người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và lao động trong các làng nghề mây tre đan, tre nguyên liệu đang mang lại nhiều lợi ích quan trọng cho cộng đồng xã hội.
Ngoài ra, hiện tre đang cung cấp nguyên liệu cho hơn 600 làng nghề mây, tre đan trên toàn quốc. Trong giai đoạn hiện nay, rừng tự nhiên bị cấm khai thác, rừng trồng sinh trưởng chậm thì các sản phẩm từ tre là một giải pháp tốt thay thế các sản phẩm sản xuất từ gỗ. Cả nước có 251 doanh nghiệp chế biến tre, trong đó 95% là doanh nghiệp vừa và nhỏ; doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn (trên 15 tỷ đồng) chiếm khoảng 5%.
Thế nhưng, hiện nay, các hộ trồng tre đang bị áp lực bởi có nhiều cây trồng khác có giá trị kinh tế cao như: Cây ăn quả, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi. Bên cạnh đó, các nguồn giống tre tốt và tre đang có dấu hiệu suy thoái; diện tích bị thu hẹp dần, trình độ canh tác tre còn manh mún, quy mô thấp, công nghệ chế biến lạc hậu.
Theo bà Yến, hiện nay có rất ít nguồn giống tốt và đang có dấu hiệu suy thoái giống. Diện tích đang bị thu hẹp, trình độ canh tác thấp, quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ; hạ tầng phục vụ sản xuất chưa được đầu tư; công nghệ chế biến lạc hậu so với thế giới; thiếu chính sách hỗ trợ phát triển và sản xuất kinh doanh; công tác xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu tre còn yếu và thiếu thông tin thị trường...
Đồng quan điểm về vấn đề này, ông Nguyễn Văn Diện, Vụ trưởng Vụ Phát triển sản xuất lâm nghiệp (Tổng cục Lâm nghiệp) đánh giá, hiện cả nước có 251 doanh nghiệp chế biến tre, trong đó 95% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn (trên 15 tỷ đồng) chiếm khoảng 5%. Hiện, sản phẩm từ tre Việt Nam xuất khẩu đến gần 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó 5 thị trường xuất khẩu chính là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Pháp, Hà Lan. Tuy nhiên, ứng dụng khoa học công nghệ của các doanh nghiệp chưa được chú trọng.
Sản phẩm tre hiện chưa đa dạng, công tác xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm còn yếu, thông tin thị trường còn thiếu; trong khi các chính sách hỗ trợ và phát triển còn nhiều bất cập, vốn đầu tư chưa nhiều, sản phẩm lưu thông, tiêu thụ trên thị trường chủ yếu là sản phẩm thô…
Trước thực trạng trên, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam nhìn nhận, hiện nay nhiều nơi chưa xác định hết được vai trò, vị trí giá trị của cây tre. Bên cạnh đó, sự gắn kết giữa các doanh nghiệp với người trồng và doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu và tiêu thụ trong nước còn rời rạc chưa tập trung, đặc biệt là xây dựng các vùng nguyên liệu lớn phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. "Do đó, bên cạnh xây dựng lại vùng nguyên liệu tre tập trung, hiện Bộ NN&PTNT đang đề xuất lên Bộ Nội vụ thành lập Hiệp hội Tre luồng Việt Nam. Đây sẽ là một trong những tiền đề và cơ sở đầu tiên gắn kết ngành tre Việt trong giai đoạn mới này", ông Nam cho hay.
Với quy mô thị trường toàn cầu sẽ đạt xấp xỉ 83 tỷ USD vào năm 2028, cùng tốc độ tăng trưởng hàng năm là 5,7%, thị trường cho sản phẩm từ cây tre, đây được đánh giá là ngành hàng vô cùng tiềm năng cho nông nghiệp nước ta. Mặc dù có diện tích trồng tre cùng với các giống tre chất lượng cao ngang bằng với các quốc gia trên thế giới nhưng hiện ngành tre Việt vẫn chưa thể phát huy hết tiềm năng của mình. Do đó, rất cần 1 tiêu chuẩn riêng và hành lang pháp lý để phát triển ngành tre Việt Nam.
Để ngành tre sản xuất, chế biến và kinh doanh ổn định, bền vững cần sớm nghiên cứu cải tạo giống tre và áp dụng các phương pháp trồng, chế biến theo công nghệ cao vào sản xuất; xây dựng chuỗi liên kết trong sản xuất, tiêu thụ, quy hoạch hiệu quả các vùng trồng, liên kết vùng nguyên liệu với các làng nghề và thị trường tiêu thụ.
Các doanh nghiệp và người dân mong muốn nhà nước có chính sách về đất đai, tín dụng, khoa học công nghệ, thị trường tiêu thụ… phù hợp để hỗ trợ xây dựng liên kết theo chuỗi, nhằm đa dạng hóa sản phẩm, tăng cường xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm tre ra thị trường quốc tế…
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam cho biết, Bộ NN&PTNT đã có văn bản gửi Bộ Nội vụ về việc sớm hình thành Hiệp hội Tre luồng Việt Nam. Hiệp hội sẽ có sự tham gia của các doanh nghiệp, người trồng tre trong nước, qua đó thúc đẩy liên kết các chuỗi giá trị trong ngành hàng tre Việt Nam.
Ngoài ra, để phát triển bền vững ngành hàng tre Việt Nam, các ngành chức năng cần có định hướng mang tính chiến lược cho ngành tre trong thời gian tới. Cần bảo tồn giá trị văn hóa của cây tre gắn với việc đẩy mạnh giá trị kinh tế của các sản phẩm làm từ tre; đa dạng hóa các sản phẩm, thay thế dần những sản phẩm được làm từ gỗ; xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, có chứng chỉ quản lý theo tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế.