Tăng trưởng kính tế cả nước năm 2022 có thể đạt 8%

Với kết quả đã đạt được, có 2 kịch bản tăng trưởng GDP năm nay được Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra: 7,5% và 8%. Phương án 2 được Tổng cục Thống kê đánh giá là có khả năng cao hơn. Trong khi đó, theo dự báo của nhiều tổ chức quốc tế, Việt Nam sẽ có mức tăng trưởng kinh tế cao nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong năm nay.

Hậu Covid-19, Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về phục hồi

Tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9 năm 2022, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có các Báo cáo về tình hình kinh tế-xã hội (KTXH) tháng 9 và 9 tháng năm 2022. Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, tăng trưởng kinh tế đạt nhiều kết quả tích cực so với cùng kỳ khi GDP quý III tăng 13,67%. tính chung 9 tháng GDP tăng 8,83%, cao nhất từ năm 2011 đến nay, phục hồi và tăng đồng đều trong cả 03 khu vực, lần lượt là 2,99%, 9,44% và 10,57%.

Bên cạnh đó, ôn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát được lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn: CPI bình quân 9 tháng tăng 2,73%, tương đương cùng kỳ các năm 2018-2021. Trong đó, thu ngân sách nhà nước 9 tháng đã gần cán đích cả năm khi ước đạt 94% dự toán, tăng 22% so với cùng kỳ năm 2021.

Ngoài ra, tính chung kim ngạch xuất nhập khẩu 9 tháng đạt 558,5 tỷ USD, tăng 15,1%. Nền kinh tế tháng 9 ước xuất siêu 1,14 tỷ USD, tính chung 9 tháng xuất siêu 6,52 tỷ USD…

Kết quả nổi bật tiếp theo của năm 2022 được báo cáo là kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm, ước cả năm GDP tăng trưởng cao hơn kế hoạch, được các tổ chức quốc tế có uy tín đồng thuận đánh giá cao.

Thu ngân sách nhà nước (NSNN) ước cả năm vượt 14,3% so với dự toán, tạo dư địa trong điều hành tài khóa để hỗ trợ tăng trưởng, ổn định và nâng cao đời sống người dân.

Thị trường tiền tệ cơ bản ổn định, mặt bằng lãi suất, tỷ giá, hạn mức tăng trưởng tín dụng được điều hành phù hợp, hướng tín dụng vào các ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên. Kim ngạch xuất khẩu cả năm ước tăng khoảng 9,5% lên 368 tỷ USD. Vốn FDI thực hiện ước đạt 21-22 tỷ USD, tăng khoảng 6,4-11,5%.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội cả năm ước tăng 10,7%, là động lực để nền kinh tế đẩy nhanh việc mở rộng năng lực sản xuất trong thời gian tới. Công tác điều hành giá, nhất là đối với các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là xăng, dầu, sách giáo khoa được quan tâm, chỉ đạo quyết liệt và hiệu quả. Các khu vực kinh tế tăng trưởng tốt so với năm 2021. Cân đối điện, xăng dầu, lương thực được bảo đảm.

Tuy nhiên, Thứ trưởng Trần Duy Đông cho biết vẫn có 1/15 chỉ tiêu dự kiến không đạt là tốc độ tăng năng suất lao động xã hội, ước tăng khoảng 5,2% (mục tiêu đề ra là 5,5%).

7kii3yce6ixmx0uxik3-1381-anhtintuc-293953ed-1664606833.jpeg
Ảnh minh hoạ.

Cũng theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng tình hình doanh nghiệp tiếp tục khởi sắc. Số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường 9 tháng đạt trên 163.000 doanh nghiệp, tăng 38,6% so với cùng kỳ năm 2021, gấp 1,4 lần doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

“Theo xếp hạng tháng 8 của Nikkei, Việt Nam xếp thứ 2 thế giới về phục hồi sau dịch”, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông tin.

Đánh giá chung, ông Dũng cho biết trong tháng 9 và 9 tháng, nền kinh tế có xu hướng phục hồi rất tích cực; tăng trưởng kinh tế cao, đồng thời vẫn giữ vững được ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát được lạm phát và bảo đảm được các cân đối lớn. Đây là nền tảng quan trọng để thúc đẩy phục hồi kinh tế và phát triển bền vững, tạo dư địa nguồn lực ứng phó với những rủi ro, thách thức của tình hình thế giới hiện nay

Trên cơ sở kết quả 9 tháng đầu năm 2022, dự báo tình hình quý IV, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị phấn đấu đạt tăng trưởng cả năm khoảng 8%, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế năm 2023. Dự báo này vượt xa so với chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế vượt mục tiêu đề ra 6-6,5%.

Những khó khăn và thách thức sắp phải đối mặt...

Bên cạnh những kết quả tích cực, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng nêu rõ một số tồn tại, khó khăn, thách thức chủ yếu do giá xăng dầu, nguyên liệu vật tư đầu vào, chi phí sản xuất cao, xuất hiện tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ trong một số lĩnh vực tại một số địa phương là trung tâm công nghiệp trọng điểm, áp lực lớn lạm phát từ bên ngoài..

Hoạt động sản xuất, kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, Các thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản còn tiềm ẩn rủi ro. Nguy cơ suy thoái tại nhiều nước ngày càng trở nên rõ ràng hơn; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, lượng khách du lịch… có khả năng bị thu hẹp hơn, gia tăng thách thức lên tăng trưởng xuất khẩu, du lịch nước ta.

Các thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản còn tiềm ẩn rủi ro. Dịch COVID-19 còn tiềm ẩn khả năng diễn biến phức tạp. “Khó khăn, thách thức phải đối mặt là rất lớn, các yếu tố rủi ro, bất định ngày càng gia tăng, nhất là áp lực lạm phát từ bên ngoài, thị trường xuất khẩu, khách du lịch quốc tế bị thu hẹp, việc điều chỉnh chính sách của các nước lớn…”, ông Dũng nhấn mạnh.

Trong giai đoạn cuối năm, Thứ trưởng nêu rõ cần tập trung triển khai đồng bộ và hiệu quả Chương trình phòng, chống dịch COVID-19. Theo dõi chặt chẽ diễn biến chính sách của các nước lớn, là đối tác thương mại và đầu tư chủ yếu của Việt Nam.

Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, chắc chắn, bảo đảm tính chủ động, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, hài hòa với điều hành chính sách tài khóa mở rộng hợp lý... nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

Thi Nguyên (t/h)