Doanh nghiệp nhỏ và vừa kỳ vọng tháo gỡ điểm nghẽn tín dụng

Trước những khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay từ hệ thống ngân hàng, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) buộc phải tìm hướng đi mới thông qua liên kết hợp tác để xoay vòng dòng tiền và duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh.
dsc00950-5898-1750405983.webp
Gỡ điểm nghẽn tín dụng cho doanh nghiệp. (Ảnh minh hoạ)

Doanh nghiệp gặp khó khi vay vốn ngân hàng

Trong cơ cấu tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, nguồn vốn tín dụng ngân hàng vẫn đóng vai trò chủ đạo, đặc biệt đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất. Không chỉ là nguồn lực để duy trì hoạt động sản xuất, dòng vốn này còn giữ vai trò then chốt trong việc mở rộng đầu tư, khai phá thị trường mới và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Mặc dù Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã mở ra nhiều cơ hội bứt phá cho khu vực doanh nghiệp tư nhân, tuy nhiên, bài toán tiếp cận vốn vay ngân hàng vẫn là một trong những nút thắt lớn mà các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), doanh nghiệp siêu nhỏ đang phải đối mặt. Đại diện nhiều doanh nghiệp bày tỏ mong muốn trong quá trình triển khai Nghị quyết vào thực tế, các cơ quan chức năng và bên liên quan cần tìm kiếm giải pháp tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận tín dụng hoặc xây dựng các mô hình liên kết hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn với lãi suất hợp lý, phù hợp thực tiễn.

Chia sẻ cụ thể về khó khăn này, ông Nguyễn Đức Xuân – Chủ tịch HĐQT Công ty CP Đầu tư Thương mại Hà Thành cho biết, dù từng trúng các gói thầu cung cấp thiết bị y tế, doanh nghiệp vẫn không dễ tiếp cận vốn ngân hàng do không có tài sản đảm bảo. Phía ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp chứng minh năng lực trúng thầu, nhưng chủ đầu tư lại không thể đứng ra bảo lãnh vay vốn. Cuối cùng, công ty buộc phải “dựa” vào một doanh nghiệp lớn có tiềm lực tài chính để thực hiện dự án, đồng nghĩa với việc mất đi cơ hội phát triển độc lập.

Trong khi đó, dù có tài sản bảo đảm, Công ty CP Xây dựng và Thương mại Nhà Hà Nội vẫn gặp khó khăn khi vay vốn ngân hàng. Lãnh đạo công ty lý giải, do doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, đầu tư công, nên nguồn vốn ngân sách thường giải ngân chậm, khiến điều kiện vay càng thêm khắt khe.

Đáng chú ý, ông Nguyễn Văn Mạnh – Tổng Giám đốc doanh nghiệp cho biết công ty đã không vay vốn ngân hàng suốt hơn 10 năm qua. Thay vào đó, khi trúng các gói thầu lớn, công ty sử dụng nguồn vốn tự có, hoặc huy động từ đối tác liên doanh, liên kết để đảm bảo dòng tiền và chia sẻ lợi nhuận, nhằm giảm phụ thuộc vào hệ thống tín dụng.

Trước thực tế đó, ông Đinh Duy Hưng – Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH Thể thao Duy Hưng đề xuất thành lập các nhóm kết nối lớn, có sự tham gia của đại diện doanh nghiệp, ngân hàng và hiệp hội ngành nghề. Theo ông, đây là cách để các bên chia sẻ thông tin một cách minh bạch, đầy đủ, từ đó giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn hiệu quả hơn, còn các ngân hàng có thêm cơ hội cạnh tranh lành mạnh trên thị trường tín dụng doanh nghiệp.

Cần một cú huých chính sách để hoàn thiện mô hình Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp SME

Đại diện cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa, ông Mạc Quốc Anh – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP Hà Nội cho rằng để tháo gỡ điểm nghẽn vốn tín dụng hiện nay, rất cần một cú huých chính sách từ việc hoàn thiện mô hình các Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ ở cả cấp trung ương và địa phương. Đây được xem là một giải pháp căn cơ giúp giảm thiểu rủi ro cho các ngân hàng thương mại, đồng thời mở rộng cánh cửa tiếp cận vốn vay cho những doanh nghiệp có tiềm năng phát triển nhưng thiếu tài sản thế chấp.

Thực tế cho thấy, thời gian qua, các Quỹ bảo lãnh tín dụng ở địa phương hoạt động còn rất khiêm tốn, quy mô nhỏ, cơ chế phê duyệt rườm rà và thiếu sự phối hợp hiệu quả với các tổ chức tín dụng, khiến doanh nghiệp SME gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn.

Theo ông Mạc Quốc Anh, việc nâng cấp mô hình Quỹ bảo lãnh tín dụng là hết sức cấp thiết để đáp ứng yêu cầu phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Về lâu dài, hệ thống quỹ này cần trở thành cánh tay nối dài của chính sách tài khóa – tiền tệ, giúp khơi thông dòng vốn cho doanh nghiệp một cách chủ động, an toàn và hiệu quả.

Để làm được điều đó, ông đề xuất cần thống nhất mô hình tổ chức Quỹ bảo lãnh tín dụng trên toàn quốc, ban hành một nghị định riêng quy định về hoạt động của các quỹ theo hướng trao quyền tự chủ, linh hoạt trong phê duyệt và quản lý rủi ro. Đồng thời, các quỹ này cần được đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo hiệu quả và tính minh bạch trong hoạt động.

Bên cạnh đó, cần tăng cường nguồn vốn điều lệ cho các quỹ hiện có, Chính phủ nên hỗ trợ vốn đối ứng hoặc cho phép địa phương sử dụng ngân sách tái cấp vốn cho quỹ. Mô hình “doanh nghiệp bảo lãnh doanh nghiệp” trong chuỗi giá trị cũng nên được thể chế hóa, khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp lớn trong việc bảo lãnh chuỗi cung ứng.

Một yếu tố quan trọng khác là chấp nhận mức rủi ro hợp lý trong hoạt động bảo lãnh, kết hợp ứng dụng công nghệ để đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp các quỹ hoạt động linh hoạt hơn và hiệu quả hơn.

Cuối cùng, ông Mạc Quốc Anh nhấn mạnh cần xây dựng cơ chế kết nối chặt chẽ giữa Quỹ bảo lãnh tín dụng với các chương trình hỗ trợ của các bộ, ngành liên quan. Qua đó hình thành hệ sinh thái tín dụng toàn diện, hỗ trợ doanh nghiệp SME không chỉ về vốn, mà còn cả thông tin, đào tạo và dịch vụ bảo lãnh trong suốt quá trình phát triển.

Trần Huyền